Wednesday, May 22, 2019

Ta Về - Tô Thùy Yên


Tô Thùy Yên vừa ra đi vĩnh viễn.
  Người Việt làm thơ rất nhiều, nhưng thi sĩ, rất hiếm. Thi sĩ một mình một chiếu như TTY, còn hiếm hơn nữa.
  Để tưởng niệm nhà thơ vừa nằm xuống, không gì hơn là đọc lại ‘’ Ta Về ‘’. Tất cả ngôn ngữ, phong thái TTY phảng phất trong đó.
  Thơ TTY chững chạc, cổ điển như thơ Đường, nhưng mới lạ, táo bạo hơn thơ mới. Đạo mạo như một người đứng tuổi, từng trải, nhưng trẻ, mạnh, vũ bão như thanh niên. Không Bắc, không Nam, không Sài gòn, Hà Nội, bởi vì đó là tiếng thở dài, tiếng khóc, cái quặn đau của người Việt ( hỡi ơi, trời đã bỏ rơi dân ! ). Đặc Việt Nam, nhưng mở rộng ra những chân trời mới. Đau xót, bi quan nhưng bao dung ; đứng ngoài, đứng trên cái thù hận, để thấy cái bát ngát của đất trời, rất zen, rất thiền ( Cám ơn hoa đã vì ta nở/ Thế giới vui vì những nỗi lẻ loi ) Từ ngữ TTY đài các nhưng gần gũi, sáng tạo cực kỳ nhưng tưởng như dễ dãi. Vừa lạ, vừa thực.
  TTY ra đi, bỏ dở thiên trường ca về nỗi đoạn trường của một dân tộc. '' Ta tiếc đời ta sao hữu hạn/ Đành không trải hết được lời ta ''
  ( tuthuc-paris-blog.com )


Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay 


Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ 

 
Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay


Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu
   

Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ
   

Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi
   

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi 


Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng 


Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này 


Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa
   

Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời

Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi
   

Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây

Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời


Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can 


Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta 


Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên

Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền 


Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ

Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa 


Ta về khai giải bùa thiêng yểm 

Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi 


Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn 

Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa? 


Ta về như đứa con phung phá 

Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu 


Con gẫm lại đời con thất bát 

Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên 


Ta về như tiếng kêu đồng vọng 

Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông 


Ta gọi thời gian sau cánh cửa 

Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau 


Ta về dẫu phải đi chân đất 

Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm 


Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa 

Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa 


Ta về như giấc mơ thần bí 

Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi 


Bé ơi, này những vui buồn cũ 

Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen 


Ta về như nước Tào Khê chảy 

Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa 


Người chết đưa ta cùng xuống mộ

Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao
  

Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh
 

Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
  

Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta

Tô Thùy Yên 

XIN CHÂN THÀNH CẢM TẠ ĐÃ CHO BIẾT TIN THI SĨ TÔ THÙY YÊN ĐÃ RA ĐI... LÒNG NGẬM NGÙI VĨNH BIỆT BẠN THƠ - BẠN TÙ - XIN CÚI ĐẦU NGUYỆN CẦU HƯƠNG LINH BẠN SIÊU THOÁT VÀO CÕI VĨNH HẰNG, VỚI NGUỒN THƠ BẤT TẬN.
VÕ ĐẠI TÔN. (HPL) SYDNEY. 
HOUSTON, Texas (NV) – Nhà thơ Tô Thùy Yên, tác giả bài thơ “Chiều Trên Phá Tam Giang,” mà một phần của nó được cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ nhạc, vừa qua đời tối Thứ Ba, 21 Tháng Năm, tại Houston, Texas, hưởng thọ 81 tuổi, ông Đinh Hiệt, con trai nhà thơ, xác nhận với nhật báo Người Việt qua một tin nhắn.
Theo bài viết “Tuyển Tập Tô Thùy Yên” của tác giả Trần Doãn Nho đăng trên nhật báo Người Việt hôm 10 Tháng Hai, nhà thơ Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định. Học tại Gia Định và Sài Gòn. Viết từ cuối thập niên 1950. Tại ngũ từ 1964 đến 1975. Tù Cộng Sản 13 năm. Tị nạn tại Hoa Kỳ từ 1993.

Vẫn theo tác giả Trần Doãn Nho, Tô Thùy Yên là một trong những nhà thơ lớn của văn học miền Nam Việt Nam (1954-1975).
Bài thơ (được xem) như đầu tay của ông, “Cánh đồng, con ngựa, chuyến tàu,” được sáng tác lúc ông còn là một thiếu niên.
“Thơ Tô Thùy Yên có rất nhiều khái niệm hoặc hình tượng triết lý – lời thơ đôi khi bí hiểm, khó hiểu – thì đồng thời lại không thiếu những hình ảnh hiện thực, có thể nói còn hiện thực hơn cả những nhà thơ hiện thực nhất,” theo tác giả Trần Doãn Nho nhận xét.
Theo lyrikline.org, một trang mạng sưu tầm thi ca, nhà thơ Tô Thùy Yên tốt nghiệp trung học Petrus Ký và Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trước năm 1975.
Theo nhà thơ Du Tử Lê viết trên blog của ông, thơ Tô Thùy Yên bắt đầu xuất hiện trên báo chí từ năm ông 16 tuổi. Gia nhập nhóm Sáng Tạo thành hình năm 1956, cộng tác đều đặn với nhiều tạp chí văn học ở miền Nam, chủ trương nhà xuất bản văn học Kẻ Sĩ.
Đã xuất bản: Thơ Tuyển (một ấn bản tại Đức năm 1994, một ấn bản tại Mỹ năm 1995), ThắpTạ (năm 2004).
Hồi đầu năm 2019, ông cho ra mắt “Tô Thùy Yên – Tuyển Tập Thơ,” gồm 96 bài thơ, gộp lại những bài từ hai tập trước, cộng thêm một số bài mới được tìm thấy và đưa vào sau này.
Vẫn theo tác giả Trần Doãn Nho, từ khi qua định cư tại Hoa Kỳ, Tô Thùy Yên cư ngụ tại thành phố Houston, tiểu bang Texas.
Ông tiếp tục làm thơ và đi nhiều nơi tham gia các buổi sinh hoạt văn học cũng như giới thiệu tập thơ đầu tiên của ông. Tuy nhiên, trong những năm sau này, sức khỏe nhà thơ không được tốt, nên ông hiếm khi đi đâu và ít thấy xuất hiện trước công chúng. Vào năm 2017, nhân dịp 30 Tháng Tư lần thứ 42, đáp lời mời của trường đại học Yale University, muốn có tiếng nói của một nhà thơ miền Nam Việt Nam, dù đi đứng khá khó khăn, ông đã cố gắng đến tham dự và đọc thơ cùng với một số nhà thơ khác như Đinh Linh, Phan Nhiên Hạo, và Chân Phương vào ngày 26 Tháng Tư, 2017.
Trong dịp này, ông cũng tham dự một buổi sinh hoạt đọc thơ Tô Thùy Yên khác tại trung tâm Việt-Aids do nhóm văn nghệ sĩ Boston tổ chức vào chiều tối ngày 28 Tháng Tư, 2017.
Hồi Tháng Hai, bà Huỳnh Diệu Bích, vợ ông, cho biết, ông đang nằm tĩnh dưỡng ở bệnh viện sau một cơn đột quỵ. (Đ.D.)


Theo blog Du Tử Lê
TTYen-content-content 
Nguyễn Mạnh An Dân: Tô Thùy Yên, tên thật Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định trong một gia đình bình thường, đông các em, cha làm chuyên viên phòng thí nghiệm thuộc Viện Pasteur, sau về Bệnh viện Chợ Rẫy, mẹ nội trợ. Học tiểu học ở Gia Định, trung học ở Sài Gòn (trường Petrus Trương Vĩnh Ký và tư thục Les Lauriers), có ghi danh theo học ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ban Văn Chương Pháp, một thời gian rồi bỏ dở. Động viên vào cuối năm 1963, khóa 17 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, tại ngũ cho đến ngày 30 – 4 – 1975, chủ yếu trong ngành Chiến Tranh Chính Trị. Cấp bực cuối cùng: Thiếu Tá. Tù Cộng Sản ba lần, tổng cộng 13 năm. Cuối năm 1993, cùng gia đình sang tị nạn tại Hoa Kỳ, mấy năm đầu ở Saint Paul, Minnesota, sau dọn về Houston, Texas cho đến nay.
Thơ Tô Thùy Yên bắt đầu xuất hiện trên báo chí từ năm ông 16 tuổi. Gia nhập nhóm Sáng Tạo thành hình năm 1956, cộng tác đều đặn với nhiều tạp chí văn học ở miền Nam, chủ trương nhà xuất bản văn học Kẻ Sĩ. 
 Đã xuất bản : Thơ Tuyển (một ấn bản tại Đức năm 1994, một ấn bản tại Mỹ năm 1995), ThắpTạ (năm 2004). 

-  Anh là một tác giả thành danh rất sớm, thường xuyên có thơ văn đăng báo từ khi mới 16, 17 tuổi, và cho đến năm 1975, anh đã gần như liên tục tham dự vào những hoạt động có liên quan đến chữ nghĩa như viết báo văn học, có lúc làm báo văn học, dịch sách văn học Pháp, thậm chí làm cả xuất bản văn học, vậy mà anh lại chẳng cho xuất bản một tác phẩm nào của anh, tại sao vậy?
- Phải thú nhận là có rất nhiều lúc bất đắc ý với đời sống, tôi đã tỏ ra không mặn mà cho lắm với chữ nghĩa văn chương dù rằng hồi còn trẻ nhỏ, tôi đã cực kỳ mê đắm văn chương, nung nấu ước vọng sau này trở thành một tác giả giá trị. Tôi thường xuyên trăn trở trong cái ý nghĩ gai góc là văn chương phải chăng cũng chỉ là một trò chơi mà mắt, dối gạt, phù phiếm, vô bổ. Nên đã có mấy lần, đặc biệt hồi mới vào lính, bị đặt trước một tương lai sinh tử chờn rờn, trong mấy năm liền, tôi đã tự ý dứt khoát xa lìa mọi sinh hoạt văn chương chữ nghĩa, đến độ chỉ một hai người bạn thân ở Sài Gòn lúc bấy giờ biết rõ tôi lưu lạc ở nơi nào của đất nước. Những đại họa giáng xuống con người vô phương tránh đỡ, văn chương cùng lắm cũng chỉ là thêm nữa một tiếng kêu đau. Còn nhớ hồi 19, 20 tuổi, tôi đã viết một câu thơ: Anh định ngày rất gần đây, sẽ thôi làm văn nghệ, tôn giáo của những anh hùng bất lực… Vào cái thời còn là ngựa non, dê cỏn, tôi lẫn quẫn với cái ảo tưởng anh hùng đương đầu với cuộc sống. Sau này, trên 60 tuổi, tôi lại viết:  Ôi, kinh điển nào chẳng là bia chú đoạn trường: / Nơi đây nhân loại cùng quẫn không yên nghỉ. Nói chung, trước kia cũng như sau này, đối với tôi, văn chương vẫn chỉ là một chứng từ sao lại về sự thất bại của con người trước cuộc sống.
Mặt khác, đối với văn chương, có lẽ tôi là người mắc chứng cầu toàn dù tôi hiểu rõ rằng sự hoàn chỉnh, ở bất cứ lãnh vực nào, cũng chỉ là một khái niệm chớ không thể là một thực tế. Bài thơ nào của tôi dẫu có được sửa tới sửa lui bao nhiêu lần, khi đọc lại, tôi vẫn cảm thấy hình như chưa phải vậy. Tôi rất dễ bị ray rứt, dằn vặt chỉ vì một tứ chưa ổn, một chữ chưa đắc. Thậm chí nhiều khi tôi cảm thấy hối tiếc sao đã lỡ viết ra chi vậy. Làm người đi qua trần gian, sao chẳng chịu như con chim bay qua bầu trời, không để lại dấu vết? Dường như không có tác giả nào không ân hận ít nhiều về những sai sót trong những tác phẩm đã công bố của mình. Là người sử dụng chữ nghĩa, nhưng tôi lại thường xuyên cảm thấy một cách vô vọng sự bất lực hàm hồ, đôi khi cả sự bôïi phản giảo ngụy của chữ nghĩa. Thậm chí lắm lúc tôi có cái ý nghĩ kỳ quặc là bài viết mới phải chăng là để sửa chửa bổ túc gì đó cho những bài viết cũ của mình. Thành thử, trước giờ tôi không hề có thói quen lưu giữ những bài viết đã đăng báo của mình. Nói chi tới việc gom góp lại cho in thành một cuốn sách. 
- Có nhiều lý do nhưng lý do chính yếu có lẽ văn chương như người vợ hiền, đã chẳng phải để bỏ nhau khi hoạn nạn cùng đường thì chẳng bao giờ còn để bỏ nhau được nữa. Sau ngày 30 – 4 – 1975, bị trói tay, bịt miệng, thóa mạ, chà đạp, đọa đày, tôi càng nhận chân rằng có lẽ chẳng chỉ riêng gì đối với cá nhân tôi, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã mà con người có thể sắp bị tước bỏ chính cái nhân phẩm của mình, thật sự văn chương đã là một trong những trợ lực hữu hiệu để con người còn đứng vững được một cách xứng đáng. Cảm động hơn cả là chính trong tình huống cùng khốn khắc nghiệt đó, có nhiều bạn đồng cảnh đã nhiều lần trân trọng đọc bình cho tôi nghe chính những câu thơ nào đó của tôi viết từ những đời thuở xa xôi nào, trong số có nhiều câu thật tình tôi chẳng còn nhớ ra. Những lúc đó, tôi bỗng bồi hồi ý thức về một món nợ tình cảm lớn lao chưa trang trải, về một lời hứa nghiêm trọng chưa thi hành. Mãi sau này, mỗi khi cảm thấy lơ là ngao ngán với chữ nghĩa, tôi lại bần thần hồi tưởng một thời đau đớn đằng đẵng thèm có được giấy bút và tự do. Cũng y như mỗi lần bỏ lại thức ăn thừa mứa, tôi không tránh khỏi lặng người giây lâu vì những kỷ niệm mười mấy năm đói kiệt. Nói chung, về văn chương, tôi đặc biệt yêu quý lời nói này của cổ nhân Trung Quốc: Ta hồ! Văn chương chi sự, thốn tâm thiên cổ! (Tạm dịch: Than ôi! Cái chuyện văn chương, tấc lòng thiên cổ!) Quả động tâm can, tiếng chép miệng ta hồ bần thần khuya khoắt đó. 
 - Hình như hầu hết những thi sĩ thành danh xưa nay đều bắt đầu làm thơ từ tuổi 16, 17. Qua kinh nghiệm bản thân, anh giải thích sao về điều này?

- Quả là hầu hết những thi sĩ thành danh xưa nay đều đã làm thơ từ tuổi 16, 17 hoặc sớm hơn nữa, tuy chúng ta vẫn thường có trong trí tưởng hình ảnh những nhà thơ lão trượng râu tóc rạng ngời như Homer, Khuất Nguyên, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hugo, Tagore… Tôi không chắc là tôi có thể có một lời giải thích thỏa đáng nào. Tôi chỉ mơ hồ cảm thấy rằng dường như thi ca là buổi hừng đông của nhân loại, là tiếng reo hứng khởi của cảm thức vừa bừng dậy của con người trước những huyền nhiệm thiên hình vạn trạng của sự sống. Nếu bản chất của triết học là tra vấn thì bản chất của thi ca phải là tán thán. Thành thử thông thường, người ta đến với thơ ngay từ khi mới lớn, tức lúc cảm thức về đời sống vừa định hình. 
- Nhưng cũng có những trường hợp không phải là hiếm ít những người cả đời chưa từng làm thơ, thậm chí chưa từng biết đến thơ nhưng khi về già lại say mê làm thơ. Anh nghĩ sao về những trường hợp này?
-  Phải chăng tuổi già lại cũng là giai đoạn mà cảm thức về đời sống sau bao nhiêu xô giạt đảo điên, được hồi định, tức lấy lại cái dạng thái sơ khởi hồn nhiên của nó? Vả lại, dường như đến một lúc nào đó trong đời, sau khi đã thất bại vô vọng với những thử nghiệm khả hữu ngõ hầu chụp bắt được cái thực tướng thường trực trá hình trốn chạy của đời sống, người ta phải viện đến cái phương tiện khiếm khuyết cuối cùng của cảm thức là thơ trong việc săn đuổi hằng hằng đó. Thơ, một phương tiện mờ ảo, mơ hồ, bất đắc dĩ, chẳng thể khác được, như lời kệ thiền, công án thiền, kiệm chữ và chỉ nhằm phác gợi chớ không hề nhằm thuyết phục hay áp đặt, do đó thơ dễ dàng vượt ngoài mọi khuôn phép, vô giới hạn.
 - Riêng phần anh, bây giờ ở tuổi già anh làm thơ có khác với thời còn thanh thiếu niên không?
- Dù muốn dù không, ta phải thừa nhận rằng tuổi tác là một trường lớp mà ta chẳng thể nhảy bỏ được, và tất nhiên đã học hỏi được rất nhiều. Nhưng giá học phí mắc mỏ phải trả chính là sự thận trọng đắn đo, điều này cản trở không nhỏ cho việc hình thành một bài thơ. Thơ của một thi sĩ lão thành có thể là thâm trầm hơn, điêu luyện hơn nhưng phần lớn chắc chắn là e dè, kềm chế và như vậy, ít nhiều kém phần tươi mỡn. Một thi sĩ, nói chung một nghệ sĩ hoàn chỉnh, dù ở tuổi nào, cũng vẫn phải giữ cho bằng được cái tâm tưởng hồn nhiên, không so đo, không quản ngại. Nghệ thuật bao giờ cũng khởi đi phơi phới từ hồn nhiên để rồi sẽ quay về tự tại với hồn nhiên. Đó là tôi nhận định chung vậy thôi. Riêng thơ tôi, xin hoàn toàn để dành cho người đọc đánh giá. 
- Nhưng anh lại là một tác giả rất mực đắn đo cân nhắc, sửa chữa tới lui…
- Bản phác thảo là của nghệ sĩ, bản hoàn chỉnh là của nghệ nhân. Nói cách khác, tôi viết nháp một mạch bằng trái tim, hiệu đính nhởn nha bằng khối óc. Lý tưởng vẫn là sự cân bằng hài hòa giữa xúc cảm và tư duy. Một tác giả vô thượng thừa, theo ý tôi, chẳng bao giờ để lộ hình tích tuyệt tử công phu của mình khi thi triển tài năng trong tác phẩm. Một lời thơ siêu tuyệt, tinh túy thơ là một lời thơ nghe chừng dễ như không dù tác giả có phải lao tâm khổ trí đến mức nào khi hình thành nó. Tất nhiên, công kỷ với thơ không hề có nghĩa là làm cho thơ khác biệt hẳn với cách thức tư duy và phát biểu của dân tộc. 
- Anh đặt nặng vấn đề tư duy trong văn chương?
- Thật sự, tôi không hề coi yếu tố tư duy nặng hơn là yếu tố xúc cảm trong văn chương. Văn chương mà chẳng tạo được mảy may xúc cảm nào nơi người đọc thì sao gọi được là văn chương? Cũng như một lời nói làm nhàm vô nghĩa lý thì làm sao có thể tạo được xúc cảm nơi người nghe? Thành thử, suy cho xa hơn, vấn đề thật sự muôn đời của văn chương nghệ thuật vẫn là sự trùng nhập đến mức nào đó giữa mạng lưới xúc cảm tư duy cá biệt của tác giả với mạng lưới xúc cảm tư duy tập thể của quần chúng thưởng ngoạn.   
- Lúc nãy, anh nói lúc trẻ anh từng ao ước sau này trở thành một tác giả giá trị. Vậy theo ý anh,  thế nào là một tác giả giá trị?
- Một tác giả giá trị gây bất an và tạo vỗ về, và không chỉ được đọc một lần thôi. Hẳn nhiên, giá trị văn chương nghệ thuật phải là một điều kiện tiên quyết.
- Tại sao không chỉ được đọc một lần? Phải chăng sự tối nghĩa cũng là một yếu tố của một tác phẩm giá trị?
- Bản chất của nghệ thuật là phác gợi. Và đã là phác gợi thì chẳng thể nào rõ ràng, thẳng đuột được. Thông thường một tác phẩm sáng rỡ mồn một không phải là một tác phẩm giá trị. À ra nó chỉ có vậy thôi, chẳng có gì hơn thế nữa. Nó vẽ vòng giam hãm người đọc, vì vậy không cầm giữ nổi người đọc. Sự trường thọ của một nghệ phẩm là ở chỗ nó luôn còn những chập chờn u ẩn. 
- Xin anh nói thêm về điều kiện tiên quyết vừa nêu ra của một tác phẩm văn chương cho là giá trị. Có thể có những định chuẩn giá trị nào khả dĩ áp dụng cho văn chương được không?
- Nói về định chuẩn giá trị văn chương nghệ thuật quả không khác gì vớt trăng trong nước. Những định chuẩn văn chương nào đó trước giờø nếu có, cũng chỉ là những định chuẩn chung chung rút ra từ những tác phẩm cũ được công nhận là giá trị mà thôi. Phần nào chúng cũng mang tính chất lỗi thời, hay ít ra cũng là khiếm khuyết. Trong khi mỗi tác phẩm văn chương là một sáng tạo đặc thù mở rộng thêm nữa những chân trời thưởng ngoạn của quần chúng. Nếu như tác phẩm đó còn tồn tại qua thời gian, chắc chắn nó sẽ gợi ra thêm những định chuẩn thẩm mỹ mới khác nữa. Do đó, cảm thức của người đọc bao giờ cũng là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc xác định tầm cỡ của một tác phẩm văn chương. Nếu như người sáng tạo là một hào phóng bất chợt nào đó của tạo hóa, thì người thưởng ngoạn cũng phải là một biệt nhãn họa hoằn nào đó của tạo hóa. Truyền thống Đông Phương đề cao người tri âm văn nghệ ngang hàng với người sáng tạo văn nghệ.  
- Tôi không nghĩ là có thể có một giải thích chung ổn thỏa về vấn đề này, một vấn đề có tính cách cá biệt chớ không phải là tập thể. Làm thơ được, hoặc ở quê nhà hoặc ở nơi nào khác, chủ yếu tùy thuộc vào hoàn cảnh cũng như cảm thức riêng tư của từng thi sĩ. Tuy nhiên, mẩu số chung của những nhà thơ lưu vong hẳn là thảm trạng vĩnh viễn tách lìa khỏi thực tế của dân tộc mình, nhất là khỏi ngôn ngữ của dân tộc mình. Boris Pasternak khi phải chọn lựa từ chối giải Nobel Văn Chương để được ở lại đất nước Nga đã khẳng định : Một thi sĩ không thể sống xa cách dân tộc mình. Trường hợp nữ thi sĩ Marina Tsvetaeva khi trốn chạy khỏi Liên Sô, tự an ủi là trong cảnh lưu vong, ít ra nhà thơ cũng còn may mắn hơn nhà văn, bởi lẽ nhà thơ chủ yếu cần đến cảm thức tâm tư hơn là thực tế xã hội, nhưng rồi sau 20 năm lưu lạc ở Tây Âu, bà lại lộn về Liên Sô chỉ vì quá nhớ quê hương và tiếng nói, để rồiø cuối cùng không chịu đựng nổi nữa những thống khổ bầm dập do chế độ toàn trị gây ra, đã phải tự kết liễu oan nghiệt mạng sống của mình khi tuổi mới 50. Nhưng cũng có những trường hợp ngược hẳn lại, như trường hợp Czeslaw Milosz hay Joseph Brodsky chẳng hạn, những nhà thơ này vẫn tiếp tục sáng tác thơ đều đặn khi lưu vong. Còn với Thanh Tâm Tuyền, tôi đoán chừng hồn thơ của anh vốn ăn rể quá ư sâu đậm vào cảm thức mãnh liệt của anh về lịch sử đất nước, nên khi phải bứt nhổ khỏi môi trường cố hữu, đã bị chấn tử không hồi phục được. Mấy câu thơ làm khi sắp lìa bỏ Việt Nam của Thanh Tâm Tuyền đáng để suy ngẩm về trường hợp của anh: Rũ bỏ ký ức- ký ức người… Và đi… Biệt trí nhớ khuất ngoài tích sử… Biền biệt qua mảnh vỡ thất tung… Nhớ hồi tôi còn ở Minnesota, có hôm Thanh Tâm Tuyền đến hớn hở đọc cho tôi nghe một bài thơ vừa làm xong của anh. Tôi nói bài thơ hay, anh nên làm thơ lại, đừng bỏ. Tôi cũng đặt một câu hỏi với anh là đối với một nhà thơ đã có tay nghề cao, phải chăng còn làm được thơ cũng là do thói quen, do thao dượt, do gần gũi gắn bó với chữ nghĩa. Lúc đó, anh nói anh sẽ làm thơ lại nếu như anh tìm được một cách thức viết mới, anh không muốn sao chép lại chính mình, cũng như anh không muốn còn bị ràng buộc vướng víu bởi các tàn tích của quá khứ. Tôi nói đó là điều tuyệt vời, nhưng liệu người ta có thể nào làm những hai lần cách mạng trong đời mình không, hơn nữa sao làm được cách mạng, dù chỉ là cách mạng trong văn chương, khi chẳng có sẵn một môi trường quần chúng lịch sử thích ứng. Và câu chuyện về thơ bữa đó đã phải ngưng ngang bằng sự im lặng hồi lâu của cả hai người. Riêng tôi, tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng việc làm thơ hoàn toàn do hoặc nhu cầu, hoặc sở thích, cả hai điều này đều có tính giai đoạn và riêng tư. Điển hình là Rimbaud, lừng danh thi sĩ từ năm 16 tuổi, đến khoảng năm 21 tuổi ngưng hẳn làm thơ cho đến khi qua đời, năm 37 tuổi. Nên tôi hoàn toàn bình tâm thả nổi tôi. Hồn tính của thi sĩ bao giờ chẳng là một hồn tính lang thang? 
- Anh là tác giả người miền Nam duy nhất có mặt trong nhóm Sáng Tạo, gồm toàn những văn nghệ sĩ lẫy lừng và uy tín gốc miền Bắc, xin anh cho biết nguyên do nào dẫn đến  một kết hợp có vẻ như là một biệt lệ đó? 

– Hồi đó, vào khoảng cuối năm 1954, sau khi có một hai bài thơ đăng trên tuần báo Đời Mới, tôi thường lui tới với vị chủ biên của tuần báo đó là nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh, người mà tôi rất kính mến. Một số các anh sau này là những tác giả nòng cốt của nhóm Sáng Tạo như  Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sy,õ… mới di cư, cũng thường lui tới với ông Nguyễn Đức Quỳnh, và tôi quen với các anh ấy từ đó. Một hai năm sau, tạp chí Sáng Tạo thành hình và tôi đã gia nhập bằng những bài thơ mà tạp chí sẵn sàng đón nhận. Tôi là đứa trẻ nhất trong nhóm, 17 tuổi, và lại là tên Nam Kỳ duy nhất. Dường như mãi cho đến ngày nay, đại đa số người Việt Nam từ độc giả cho đến tác giả, đều có định kiến nặng nề rằng dân Nam Kỳ không làm văn nghệ được, lại càng không làm thơ được. Tưởng cũng nên nhắc là trước năm 1956, tức trước năm tạp chí Sáng Tạo ra đời, miền Nam chưa hề có một tạp chí nào chuyên thuần về văn học nghệ thuật, và làm thơ viết văn tại miền Nam lúc bấy giờ là một công việc gần như hoàn toàn ẩn mặt phía sau những công việc sinh sống khác, hoặc giả thường đồng hóa với công việc làm báo. Nên theo chỗ hiểu biết có thể là thiếu sót của tôi thì lúc bây giờ tại miền Nam, những người làm văn chương thường không có những sinh hoạt văn nghệ tập thể, khiến người ta dễ có cảm tưởng là trên phương diện văn nghệ, miền Nam là một vùng đất hoàn toàn hoang dã, tuyệt nhiên không có sự hiện diện của quần chúng văn nghệ, độc giả cũng như tác giả. Riêng đối với tôi cũng như các anh trong nhóm Sáng Tạo, chẳng ai đặt thành vấn đề phân biệt Bắc Trung Nam, bởi việc kết hợp nhau trong một phong trào văn nghệ chủ yếu căn cứ vào việc đồng chia xẻ những quan điểm văn nghệ và tài năng cá nhân cùng tình bạn giữa những người trong nhóm với nhau, chớ nhất định không phải là vấn đề địa phương quê quán. Hơn nữa, theo chỗ tôi nhận thấy, mọi người trong nhóm đều phóng khoáng, đặc biệt là Mai Thảo với tư cách chủ biên, hễ thấy ai viết được, chơi được là sẵn sàng mở cửa mời vào. Thí dụ trường hợp Quách Thoại, gốc miền Trung. Hẳn nhiên, chúng tôi thỉnh thoảng cũng có dùng những chữ Nam Kỳ, Bắc Kỳ với nhau để đùa giỡn chớ hoàn toàn không có chút hàm ý kỳ thị nào cả. Hơn nữa, toàn thể các anh trong nhóm, hồi đó cũng như sau này, rất lấy làm thích thú vì tôi là một tên Nam Kỳ Quốc, với cái tính khí đặc thù của địa phương mà các anh đang cố gắng hội nhập. 

- Xin anh cho biết – được hiểu như một chứng liệu sống của một người trong cuộc-  về mục đích và khuynh hướng sáng tác của nhóm Sáng Tạo, đồng thời cũng xin cho biết về những thành quả đã đạt được cùng những dự định dang dở nếu có.
- Chủ trương của nhóm Sáng Tạo rất đơn giản, rõ ràng: làm mới văn học nghệ thuật. Còn làm mới như thế nào hoàn toàn tùy thuộc ở mỗi cá nhân tác giả, chẳng ai bảo ban gò ép ai. Nhóm Sáng Tạo gồm những tác giả cấp tiến lúc bấy giờ quy tụ chung quanh tạp chí Sáng Tạo, chớ chẳng phải là một văn đoàn với cương lĩnh, kế hoạch này nọ. Thời gian hiện diện của tạp chí này cũng rất ngắn ngủi, chỉ vài năm thôi nên khó thể định giá được một cách chuẩn xác những thành quả của nhóm, nếu chỉ thuần căn cứ vào những tác phẩm ít oi đã hình thành lúc bấy giờ của nhóm. Tuy nhiên, hầu hết những ai có quan tâm đến văn chương nghệ thuật đều sẵn sàng thừa nhận rằng ảnh hưởng của nhóm đối với sinh hoạt văn học nghệ thuật miền Nam thật là sâu xa. Chẳng những đối với độc giả mà cả những tác giả về sau, cách thức sáng tác văn nghệ cũng như thưởng ngoạn văn nghệ nói chung rõ ràng không còn giống như trước nữa. Còn về những dự định dang dở, chắn chắn phải nhiều lắm. Lúc đó, hầu hết những tác giả của nhóm nói riêng, và cả những tác giả ngoại vi nói chung, còn quá trẻ, hẳn nhiên còn ôm ấp thiết tha bao nhiêu hoài bão, nhưng rồi lại không có đủ những điều kiện thuận lợi, nhất là thời gian cần đủ để thực hiện trọn vẹn. Nghĩ mà xót.  
- Nói làm mới văn học nghệ thuật là một hành vi hoàn toàn tự do, cá nhân, vậy anh có nghĩ rằng có thể có một sự làm mới khơi khơi, chẳng cần phải bắt nguồn từ  một điều gì đó hay không? 
- Sáng tạo đương nhiên là làm mới, là cá biệt. Tuy nhiên, trong văn học nghệ thuật, xét sâu xa nghiêm chỉnh, tôi không tin là có thể có một sự làm mới khơi khơi, làm mới vì muốn chơi trội, làm mới chỉ để làm mới. Sự làm mới nào của văn chương nghệ thuật cũng phải nương tựa vào một nhu cầu khẩn thiết nào đó của đời sống đã biến chuyển. Tính lịch sử của tác phẩm là điều chẳng thể phủ nhận. Nghệ thuật là cái bóng ảo của đời sống, và vì nhờ là cái bóng ảo nên nó có thể làm hiển lộ cái tướng tinh ẩn khuất của đời sống. Ngoài mức độ tài năng ra, sự thành bại của một cá nhân tác giả hoặc của cả một phong trào văn nghệ còn là có nhập được vào chính mạch đập của thời đại hay không.  
- Có không ít người cho rằng phần đóng góp quan trọng nhất của nhóm Sáng Tạo vào nền văn học là thơ. Anh nghĩ sao về nhận định này?
- Nhận định này, theo ý tôi, chỉ đúng một phần, cái phần nổi. Ở Việt Nam, dường như cái phần nổi của một phong trào văn nghệ bao giờ cũng là thơ. Lấy thí dụ sinh hoạt văn học thời tiền chiến, thơ mới đã gây nhiều tranh luận ồn ào cũng như tạo nhiều ảnh hưởng sâu đậm hơn là văn. Tại sao vậy? Tôi hoàn toàn không nghĩ là dân tộc Việt Nam yêu thơ hơn là những dân tộc khác. Tôi chỉ nghĩ có lẽ dân tộc Việt Nam ít khi được yên ổn rảnh rang lâu dài, và làm một bài thơ không đòi hỏi nhiều thời giờ như là viết một quyển tiểu thuyết, chẳng hạn. Trở lại nhóm Sáng Tạo. Tôi nghĩ rằng phần đóng góp quan trọng của tạp chí Sáng Tạo là đã tiên phong phá vỡ những giam hảm tù đọng đối với cảm thức văn học nghệ thuật tại miền Nam, bước đầu chuyển đưa văn học nghệ thuật miền Nam vào một kỷ nguyên mới khác. 
- Anh vừa đề cập đến thời lượng tương đối ngắn để làm một bài thơ, nhưng anh lại là tác giả nhiều bài thơ dài hơi, những bài thơ mênh mông bát ngát, xem chừng đòi hỏi một thời lượng làm việc không ngắn. Vậy anh quan niệm như thế nào về một bài thơ dài hơi cùng sự hình thành nó? 
- Một bài thơ dài hơi tất nhiên chẳng phải đơn thuần là một bài thơ có nhiều câu, nhiều chữ. Điều bất lợi thấy ngay của một bài thơ dài hơi là người đọc dễ mất kiên nhẫn để đọc nó liên tục, cũng như không thể nhớ thuộc nó trọn vẹn. Còn đối với thi sĩ, làm một bài thơ dài hơi rất dễ bị sa đà, lảm nhảm. Do đó, tất cả những chi tiết phong phú trong một bài thơ dài hơi phải thật sự đắt giá ở chỗ cùng góp phần hữu hiệu vào việc làm sáng lên thêm chủ đề của bài thơ y như những mảng màu sắc tưởng chừng tách biệt, chẳng ăn nhập gì nhau trong một họa phẩm ghép khảm. Tinh ý một chút, người đọc sẽ nhận ra rằng có nhiều đoạn ngắn trong bài thơ dài hơi thành công,  nếu được trích tách độc lập, tự đoạn thơ ấy thôi có thể đã là một bài thơ ngắn hoàn chỉnh, kiểu tứ tuyệt Trung Quốc hay haiku Nhật Bản, nếu muốn so sánh. Tất nhiên, làm một bài thơ dài hơi bao giờ cũng đòi hỏi nhiều công sức hơn, đặc biệt thi sĩ phải nuôi dưỡng duy trì sự tập trung xúc cảm tư duy lâu dài hơn, mệt mỏi hơn. Công khó ghê gớm nhất đối với nhà thơ là gầy được không khí cảm hứng thơ. Và lại càng khó hơn gấp bội khi phải gầy lại cho bằng được cái không khí từng bị ngắt ngang, bỏ dở đó. Thành thử, xong được một bài thơ, việc đầu tiên ta phải làm là cám ơn vợ con đã biết ý để yên cho trong suốt thời gian ta làm bài thơ đó. 
- Một bài thơ rất nổi tiếng của anh, bài Chiều Trên Phá Tam Giang chuyên chở cả một cái nhìn đầy tính nhân bản, đầy tình tự dân tộc, vượt lên trên những đối nghịch vô cùng bi thảm của những chủ thuyết giáo điều, vân vân… Anh nghĩ sao về nhận xét này? Anh gởi gấm điều gì trong bài thơ đó? Và bây giờ, sau bao nhiêu năm dâu bể, nếu viết lại Chiều Trên Phá Tam Giang, anh có còn giữ cái nhìn đó về cuộc chiến đã qua không

 - Một tác giả tự trọng không bao giờ nên giải thích thêm nữa về tác phẩm của mình. Yếu tính của nghệ thuật là tự nó nói lên, đúng hơn là gợi lên, bằng những phương tiện đặc thù của mỗi tác phẩm những gì mà người nghệ sĩ muốn truyền đạt. Chung cho tất cả những bài thơ khác của tôi, chớ chẳng riêng gì với bài Chiều Trên Phá Tam Giang, tôi xin phép không phải làm một việc vô ích nữa là phụ chú. Còn giả dụ bây giờ nếu phải viết lại bài thơ Chiều Trên Phá Tam Giang, tôi có giữ nguyên cái nhìn như cũ không? Tôi sẽ trả lời là có mà chẳng phải ngần ngừ gì. Chiến tranh, nhất là chiến tranh ủy nhiệm huynh đệ tương tàn, bao giờ lại chẳng gây thương tổn nặng nề cho nhân phẩm? Hẳn nhiên, trong thâm tâm, tôi mong mỏi tôi, hoặc là một thi sĩ nào khác sau tôi, sẽ chẳng bao giờ phải viết nữa môt bài thơ tung tóe máu xương như vậy. Tôi liên tưởng đến một kỷ niệm đặc biệt với Thanh Tâm Tuyền. Hồi đó, khoảng bắt đầu thập niên 90, anh đang thu xếp chờ ngày đi Mỹ, và trong một lần đến chơi với tôi, anh ngồi ngó mông ra ngõ trước nhà tôi một lúc lâu và buột miệng nói đất nước này rồi sẽ phải trải qua những biến động lịch sử tan tác kinh hồn chẳng thể cản tránh được, tôi ra đi xa lánh, anh còn ở lại, anh hoặc là ai đó sẽ phải viết một bài thơ mà chất liệu là núi xương sông máu, là hằng triệu cái xác chết. Lúc đó, tôi lặng thinh nhìn anh và thấy lại trước mắt không phải một Thanh Tâm Tuyền đã bắt đầu già chậm từ cử chỉ đến lời nói mà là một Thanh Tâm Tuyền nhiệt tình đau đớn của cái thời: Hãy cho anh khóc bằng mắt em/ Những cuộc tình duyên Budapest. Cũng trong hôm đó, anh có mang đến cho tôi mấy quyển sách ngoại quốc cũ, và trước khi ra về, anh mượn bút ghi lại nơi trang đầu của một quyển câu thơ cuối của tập Exil (Lưu Vong) của Saint-John Perse: Et c’est l’heure, ô Poète, de décliner ton nom, ta naissance, et ta race… ( Xin tạm dịch: Và đã đến giờ, hỡi Thi Sĩ, trút bỏ danh tính ngươi, dòng dõi ngươi,  và giống nòi ngươi… ) May mắn thay cho đến nay, thi sĩ Việt Nam chưa bị thúc bách phải viết ra bài thơ mà Thanh Tâm Tuyền viễn kiến đó. 

- Trong quá khứ, hình như thơ Tô Thùy Yên gắn liền với nhịp thở của cả một thế hệ Việt Nam. Cụ thể là những hào sảng bi hùng của người lính tác chiến Tô Thùy Yên, những bình thản đối diện và những lạc quan vượt lên trên những khổ lụy đời thường và hướng đến một cái gì hằng cửu đầy tính người của người tù Tô Thùy Yên. Vậy bây giờ thơ Tô Thùy Yên đang nhắm tới điều gì? 
- Tôi đang nhắm tới điều gì cho thơ tôi? Quả tình tôi không biết phải trả lời như thế nào cho được trung thực. Tôi vẫn luôn quan niệm rằng hồn thơ, ít nhất là trong trường hợp cá nhân riêng rẻ của tôi, là một tâm thái thường trực trôi nổi bất định, và bài thơ được làm ra như là một phản ứng hoàn toàn tùy duyên đưa đẩy. Nên với một nhà thơ, ước ao là một chuyện và bài thơ làm thành được lại là chuyện khác, hai chuyện này thường khi chẳng hề đồng dạng, nói chi đến đồng cỡ, và hẳn nhiên chẳng thể nào nói trước được. Với tôi, mỗi bài thơ hoàn tất quả là một may mắn bất ngờ vượt xa ngoài mọi dự kiến. Đời mình rồi sẽ sống hết, còn lòng mình thôi thì viết được chút nào, hay chút đó, biết sao hơn? 
- Tôi vẫn hằng ao ước có đủ duyên may thành được một thi sĩ xứng đáng với những lời thơ thống khổ và hàm ơn của kiếp người, những lời thơ động lòng người, động lòng trời đất. Nói như vậy cũng nhằm tỏ lộ chính tấc lòng của mình đối với người đọc, đối với văn chương.  
- Xin cảm ơn anh đã chia xẻ với chúng tôi và độc giả Tin Văn những ý kiến và nhận định hết sức cụ thể và giá trị gần như là những lời tâm tình tim gan từ một tâm hồn đã chín mùi, đã trầm lắng lại đủ để thấy được  cái “lượng từ tâm của đất trời” và để nhận ra được “thế giới vui từ mỗi lẻ loi”.  Hy vọng và tin tưởng tủ sách của người yêu thơ không chỉ có Thi Tuyển và Thắp Tạ







Ta về một bóng trên đường lớn…

Chúng tôi hân hạnh giới thiệu bài viết của cô Thảo Dân, bình luận rất sâu sắc bài thơ Ta Về của Tô Thùy Yên. Càng ngạc nhiên biết cô là giáo viên miền Bắc, sinh năm 1974:
____
Xưa giờ, tôi vẫn tự nhận mình mê thơ Nam hơn thơ Bắc. Bởi lẽ, với riêng tôi, thơ là tiếng nói thốt lên tự đáy lòng, không cần phiên dịch, không cần triết lý, không cần gò bó trong những trúc trắc diễm lệ câu từ. Thơ càng chau chuốt, bóng bẩy thì, hình như, cái tình càng ơ hờ, nhạt nhẽo. Thơ cũng không phải nơi để gửi gắm triết lý. Làm việc đó, văn xuôi và triết học tốt hơn nhiều. Thơ để cảm, để yêu, để nơi trái tim gặp gỡ trái tim. Vậy mà có một ngoại lệ, nhà thơ tôi yêu thích trong âm thầm, khá lâu bền, lại là người được giới phê bình nhận xét “Người Nam nhưng mang hồn thơ Bắc”: Nhà thơ Tô Thùy Yên.
Thật ra, trong cảm nhận của tôi, thơ Tô Thùy Yên có cả Nam, Trung và Bắc, có đủ triết, sử, đời. Nếu chọn đại diện duy nhất thơ cho một nước Việt Nam thống nhất, tôi trân trọng đề cử Tô Thùy Yên. Trong cái hệ lụy chung của Hiệp định Geneve chia đôi đất nước, thì nó cũng để lại một trái đẹp lạ lùng, đó là sự pha trộn, làm phong phú thêm ngôn ngữ, văn hóa miền Nam, và dường như, Tô Thùy Yên là thi nhân đặc biệt bắt được nhịp thở thời ông sống và nhập cả vào thơ điệu tâm hồn Bắc Trung Nam, làm nên một vóc dáng thơ vạm vỡ, uy nghi, lạ lẫm trong dòng chảy văn chương dân tộc với ngôn ngữ vừa dân dã vừa bác học, vừa bình dị vừa sang trọng, không lẫn vào ai khác.
Nếu nói thơ Chế Lan Viên độc đáo ở siêu hình, thì thơ Tô Thùy Yên siêu hình không kém. Nếu nói sự tráng lệ của câu chữ trong thơ Yến Lan, sự cổ điển của Quách Tấn, tìm trong thơ Tô Thùy Yên, đủ cả. Cảm hứng về thiện nhiên, vũ trụ trong thơ Huy Cận, Tô Thùy Yên không thua, chưa muốn nói còn rợn ngợp hơn. Về lối viết cách tân của Trần Dần hay sự tài hoa của Quang Dũng, Tô Thùy Yên có nhiều câu không hề kém cạnh. Thơ Tô Thùy Yên mang phong vị thơ Bắc ở cách diễn đạt văn chương, ở lớp lang từ ngữ ước lệ, tượng trưng của Đường luật, ở cách dùng ca dao độc đáo, duyên dáng. Tôi gọi Tô Thùy Yên là Nhà thơ không quê hương. Ông sinh ra ở Gia Định nhưng quê hương ông là Việt Nam. Thơ ông nói với ta như thế.
Thơ Tô Thùy Yên thể hiện một sự trái ngược khá lạ lùng. Ông là một trong 5 thành viên của nhóm Sáng Tạo (mà duy nhất ông là người Nam), một nhóm thơ mong muốn thổi vào thi ca Saigon khi đó một sự cách tân cả về nội dung lẫn hình thức, nhưng trong những sáng tác của ông, ta thấy ông lại dùng tấm áo gấm cổ điển để gói bọc nội dung siêu hình, giàu tính triết học, vô cùng hiện đại. Bài thơ Cánh đồng con ngựa chuyến tàu viết năm 1956 khá tân kỳ. Đặt vào hoàn cảnh quốc gia Việt Nam Cộng Hòa khi đó, nó mang tính thời sự rất cao nhưng vẫn không bớt chất lãng mạn, bay bổng. Bài thơ mở ra bức tranh động với hình ảnh cánh đồng một màu xanh cây cỏ nhưng không bằng phẳng êm xuôi mà có “gò nổng cao” và “thung lũng sâu”, như ẩn dụ về đường đời đầy thử thách. Trên nền màu xanh của cỏ cây, chú ngựa nâu đang rượt tàu, rượt tàu, rượt tàu, còn đoàn tàu vẫn vô tri vô giác chạy mau, chạy mau, chạy mau để rồi rốt cuộc ngựa thua. Gục đầu, gục đầu, gục đầu ngã lăn và để lại trên tấm thảm xanh trải dài hút mắt một vết nâu.
Dường như, trong hai hình ảnh sóng đôi con ngựa và toa tàu không chỉ là cuộc phân tranh giữa “thảo mộc phương Đông và Tây phương cơ giới” như nhà phê bình Đặng Tiến nhận xét, mà dường như, ý thơ còn muốn mở ra điều sâu kín hơn: Con tàu văn minh rất hiện đại nhưng không có hồn vía, không có sự sống, không có cảm xúc và vẫn chịu sự điều khiển của con người. Con ngựa (phải chăng là ẩn dụ về con người?), tuy phải trải qua những cung đường gập ghềnh, thử thách, nhưng luôn được sống trong những giây phút thăng hoa, có thể thắng thua trên đường đời nhưng luôn được làm chủ cảm xúc, luôn được là mình. Bài thơ là khúc hoan ca về cái tôi kiêu hãnh. Hoặc nữa, nó còn là một lời dự báo, một âu lo ngấm ngầm trong tiềm thức: Một ngày nào đó, nền văn minh công nghiệp sẽ tàn phá tất cả, bỏ lại loài người bị tước bỏ môi trường sống, không còn được thung dung như chú ngựa nâu an nhiên thuộc về cội nguồn thiên nhiên cây cỏ đồng hoang?
Nhưng, trong phạm vi một bài viết ngắn, không thể ôm đồm. Chỉ xin mạo muội chia sẻ một số suy cảm sơ sài về bản trường thi lộng lẫy trong kho tàng văn chương Việt Nam, được nhiều người ca tụng: TA VỀ.
TA VỀ- bản trường thi nhiều lớp lang, cảnh trí: cảnh trí đất trời, cảnh trí con người và cảnh trí của cõi lòng thê thiết. Mỗi khổ thơ tách riêng có thể thành một bài thất ngôn tứ tuyệt độc lập, chặt chẽ, hoàn hảo. Điệp ngữ “Ta về” được dùng như chiếc chìa khóa mở ra nội tâm nhà thơ từ lúc đặt chân xuống đường lớn, trả lại thân phận tự do. Bài thơ là tiếng lòng của một người, cũng là tiếng lòng của hàng ngàn người miền Nam bị đày ải khắp các nhà tù từ Nam chí Bắc, từ rừng hoang heo hút, hiểm trở đến những nơi đồng chua nước mặn… Đọc bài thơ, ta hiểu về lịch sử, tâm sử, chứ không chỉ là lời giãi bày khi trở lại quê nhà, thậm chí nhóm câu thơ tình ái trong bài cũng gợi về dòng lệ tràn của bao nhiêu thân phận thiếu phụ chờ chồng từ những trại cải tạo sau 1975. Không riêng bài thơ này, mà trong toàn bộ sáng tác của Tô Thùy Yên, dường như ông luôn là người chép sử, luận triết bằng thơ. Ta gặp ở đây lối kết cấu nghệ thuật như trong thơ cổ. Trang đời mới mở ra sau cánh cổng nhà tù: Trở về, qua truông qua phá, gặp người quen cũ trên đường, gặp cha mẹ, gặp vợ con, đi thăm làng xóm, nhớ người còn người mất, tìm lại chính mình những ngày tháng cũ, đan xen là những suy tưởng để tìm lại mình và phá bỏ những xiềng xích tâm hồn 10 năm dằng dặc.
“Mười năm”, không phải quãng thời gian dài nhất mà một người tù VNCH phải trải qua. Lâu nhất phải kể đên Thiếu tướng Lê Minh Đảo, Thiếu tướng Đỗ Kế Giai, Thiếu tướng Trần Quang Khôi, Thiếu tướng Phạm Ngọc Sang, Thiếu tướng Phạm Duy Tất, Thiếu tướng Lê Văn Thân, Thiếu tướng Mạch Văn Trường… đều bị tù từ tháng 5/1975- 1992, tức là 17 năm tù. Những người bị tù ít nhất cũng vài ba năm. Bản thân Tô Thùy Yên có tổng cộng 13 năm trong tù. Nhưng lần đầu, cũng là lần lâu nhất: 10 năm. Như vậy, nên hiểu “mười năm” vừa chỉ thời gian có thật, vừa là khái niệm ẩn dụ, tròn một thập kỷ, đủ để thương hải tang điền, đủ cho người thay đổi và đời thay đổi.
Ta về một bóng trên đường lớnThơ chẳng ai đề vạt áo phai Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ Mười năm đá vẫn ngậm ngùi thay.
“Ta về” được nhắc đi nhắc lại 16 lần, không phải tiếng reo vui, không phải lời báo tin mừng mà cả bài thơ nặng trĩu trầm ngâm suy tưởng. Ta về là kết thúc một phần đời đau khổ. Ta về để mở ra chương đời khác chưa biết có đỡ bi thảm hơn không. Ta về với những giấc mơ mười năm xóa trắng. Ta về mà như tiếng địch ngân xót xa sầu thảm của tráng sĩ thất trận qua sông.
Tôi hình dung ra một con người quần nâu, áo vải phai màu bởi nắng mưa xứ Bắc, thập thững đi cô độc trên đường. Đường vắng. Người gầy, bóng đổ. Cả bóng lẫn người đều câm lặng. Một cuộc trở về ngậm ngùi, không người thân đưa tiễn, không ai biết mà đón đợi. Ca dao có câu Mình về em chẳng cho về/ Em níu vạt áo em đề câu thơ. Phút chia tay, bút mực đâu mà đề thơ lên áo. Là dòng lệ của nàng vẽ lên áo một chữ Tình đó thôi. Đề thơ chỉ là cái cớ để bên nhau lâu thêm một chút. Cuộc tiễn đưa dùng dằng, lưu luyến. Nhưng với thân phận người tù cải tạo khi đó, còn sống mà trở về đã là việc thần kỳ, được rời bỏ địa ngục trần gian phút nào là biết mình được sống phút đó, còn có mong chi ai đề thơ vạt áo. Mười năm mong mỏi.
Vậy mà sao khi trở về lại “đau mềm phế phủ” đau thấu tâm can, đến nỗi đá cũng còn thay người ngậm ngùi rơi lệ? Bởi nhớ lại những đọa đày khó giấy bút nào tả xiết? Là nhớ những đoạn trường mẹ già, vợ dại con thơ truân chuyên đường xa dặm thẳm tàu xe cả tuần lễ mới tới nơi thăm nom, để dành cho một chút thức ăn từ những chắt chiu tằn tiện? Hay đau đứt ruột bởi những huynh đệ chi binh chia ngọt xẻ bùi, bảo bọc nhau qua ngày tháng khó, giờ chỉ là những nấm mồ hoang cô quạnh nằm lại nơi đất khách?
Trong bài “Tàu đêm” tái hiện cảnh đoàn tàu chở những người tù miền Nam đi đày biệt xứ, Tô Thùy Yên viết những dòng rền vang, chát chúa như lời trăng trối tuyệt vọng khi đoàn tàu như trong một cơn giông lửa, giữa đêm chạy về nơi vô định, về nơi cuối trời, và với nhiều thân phận, đó là chuyến đi về nơi cuối đời. Khi chạy qua những xóm làng tối đen im lìm của miền Bắc, những bến cảng, nhà kho, người tù nhớ mẹ, nhớ em, nhớ phố phường hoa lệ…, hình dung mình như một thứ sinh vật khổ đau bị nghiến dưới đường ray lịch sử vô tình, người tù tuyệt vọng thốt lên những tiếng kêu bi thảm để mong loài người mê sảng trong thứ chủ nghĩa giáo điều tăm tối đang im lìm kia, thức dậy để biết có những đồng bào, đồng loại đang còn có linh hồn, để cùng nhau sống.
Tàu ơi hãy kéo còi liên tụcCho tiếng rền vang dậy địa cầuLay động những tầng mê sảng tốiLoài người hãy thức, thức cùng nhau
Ngược lại, khi trở về, chỉ là những thanh âm im lặng. Một mình một bóng. Và khi trở về, người tù hồi tưởng lại đoạn đời lao tù.
Vĩnh biệt ta- mười- năm chết dấpChốn rừng thiêng im tiếng nghìn thuMười năm mặt sạm soi khe nướcTa hóa thân thành vượn cổ sơ.
Khổ thơ này là lời đoạn tuyệt 10 năm xa loài người, 10 năm sống trong âm ty địa ngục nhưng, ta vẫn bắt gặp tâm trạng kiêu hãnh kín đáo của kẻ chiến bại. Tựa vào rừng mà tồn tại. Câm lặng như rừng để giữ gìn chất Người dù cho bị đày đọa đến suy thoái cả hình hài, hoang dã như thời tiền sử. Thân bại nhưng vẫn âm thầm sống, mãnh liệt sống để danh không liệt.
Có lẽ, khổ thơ này chỉ nên đọc và cảm nhận, không cần bình luận gì nhiều về thân phận người tù. Để hiểu thêm, xin giới thiệu một vài khổ thơ trong bài “Mùa Hạn” nói về cảnh ngộ người tù, ông viết năm 1979 ở Nghệ An nhưng phải tới 15 năm sau nó mới được in trong “Thơ Tuyển”, năm 1995 ở Mỹ.
Ở đây địa ngục chín tầng sâuCả giống nòi im lặng gục đầuCắn chết hàm răng, ứa máu mắt,Chung xiềng nhưng chẳng dám nhìn nhau.Bước tới, chân không đè đá sắcVai trần chín rạn gánh oan khiênNước khe, cơm độn, thân tàn rạcSống chẳng khôn, cầu được thác thiêng.
Tô Thùy Yên đã chép lại một thời kỳ tăm tối mà ông và chiến hữu đã trải qua, thời kỳ kinh khủng, giữa thời đại văn minh mà con người bị đày đọa như súc vật đến nỗi, chung xiềng mà không dám nhìn mặt, nghiến đến chết cứng hàm răng, mắt ứa máu, vì thương bạn, thương mình, vì thân phận bị cầm tù đau xót, vì mang nỗi hận của hùm thiêng khi đã sa cơ, chỉ tồn tại với nước khe, cơm độn, nắng cháy, cát bay, rừng khô rụm, sông hồ nẻ, đá nứt, muông thú không còn, khoai sắn cũng bị dân làng đào sạch, thú hóa con người đến mức cầu được chết đi vì sống nhục nhằn hơn đau khổ hơn là chết.
Để tồn tại và vượt thoát, có người tù còn nói câu để đời: “Con gì nhúc nhích được là ăn hết”. Đó vừa là bản năng sống, vừa là bản lĩnh người. A.I.Solzhenitsyn có tác phẩm Tầng đầu địa ngục đoạt giải Nobel Văn chương năm 1970, tái hiện cuộc sống của những nhà khoa học hàng đầu của Liên xô bị giam cầm như trong địa ngục dưới thời Stalin, khiến cả thế giới bàng hoàng về sự độc ác mà con người phải trải qua. Nhưng đó vẫn là Tầng đầu, tầng cao nhất mà Dante có thể nghĩ ra trong Thần khúc để dành chỗ cho khoa học gia, những người dám chống lại cả Chúa, còn những người tù trong thơ Tô Thùy Yên, thì đó là Tầng thứ 9. Đủ cho người đọc lạnh người.
Hành trình trở về qua truông qua phá, lặng lẽ, im lìm, trời câm đất nín, đời im lìm, đóng váng. Người tù trở về, là người tự do trong thân phận cá chậu chim lồng đâu còn có thể hót lên bài ca cũ. Nhưng may mắn, họ không bị chai sạn tâm hồn, vẫn có thể “ngẩn ngơ trông trời đất cũ” cho dù đó không phải sự “ngẩn ngơ” lãng mạn tìm thi hứng, mà đó là nỗi xót xa cho phận người, phận mình, xót xa cho nỗi hưng phế suy vong của lịch sử.
Mười năm, thế giới già trông thấyĐất bạc màu đi, đất bạc màu.
Thời gian mười năm được nhắc lại, nhẹ như hơi thở mà chất chứa bao điều. Thế giới già đi, quê hương tan nát sau bao mùa bom đạn, quê hương tàn tạ sau mỗi chuyển dời. Đất bạc màu bởi người chết, người bị tù đày, người đi lên vùng kinh tế mới? Chỉ biết quê hương không còn là quê cũ trù phú, xanh tươi, sum vầy. Điệp ngữ “đất bạc màu” nghe như tiếng thở dài nuối tiếc, xót xa, bất lực. Trước sau, tấm lòng kẻ sĩ vẫn là nỗi trăn trở khi đặt những bước chân đầu tiên trở lại sau mười năm xa vắng.
Ta về như bóng chim qua trễCho vội vàng thêm gió chuyển mùaAi đứng trông vời mây nước đóNgàn năm râu tóc bạc phơ phơ.Một đời được mấy điều mong ướcNúi lở sông bồi đã mấy ghiLịch sử ngơi đi nhiều tiếng độngMười năm, cổ lục đã ai ghi.
Có lẽ ám ảnh bởi không gian vũ trụ siêu hình, nên trong thơ Tô Thùy Yên hay nhắc về các loài chim, dường như nó trở thành một hệ thống thi pháp khi ông diễn tả về thời gian, không gian: Con chim thần thoại mắt khoen sâu/ Giật mình như đã ngàn năm ngủ/ Giữ bụi lông, cất khản tiếng gào (Em nhỏ, làm chi chim biển Bắc) Ở đâu còn bóng chim huyền diệu/ Hót gọi tiền thân ta tái sinh (Mùa hạn) Núi xa chim giục giã hoàng hôn (Tưởng tượng ta về nơi Bản Trạch) Con chim nào hớt hải kêu van (Bất tận nỗi đời hung hãn đó) Con chim động giấc gào cô đơn (Trường Sa hành) Biển Bắc tuyệt mù con nhạn lạc (Mòn gót chân sương nắng tháng năm) Con chim lạc bạn kêu vườn rộng (Vườn hạ), Giữ khuya có tiếng chim ai oán (Nỗi đợi) Thương nhớ nghe chừng sông biển cạn/ Nghe chừng gãy những cánh chim bay (Tháng Chạp buồn)…
Hình ảnh “bóng chim qua trễ” như một ám ảnh cô độc, lẻ bầy, cũng là chỉ sự trễ muộn của đời người, đi với “gió chuyển mùa” càng gợi sự trống vắng. Tất cả đều đã hư hao, muộn màng, tất cả đã lỡ thời theo ngọn gió heo may của tuổi chớm đông. Để rồi còn lại, vẫn là nỗi trăn trở khi những vọng động của lịch sử sẽ ngưng ngơi, rơi vào thinh không im lặng, mười năm, bao nỗi bi thương của dịch chuyển thời thế, bao đau khổ của núi lở sông bồi, đau thương, ly tán. Đã ai ghi…vừa là câu hỏi, vừa là lời tự sự mà lại như một tiếng than thầm. Mười năm ấy, cổ lục chưa từng có sử gia biên chép. Biết bao nhiêu máu lệ, ghi mấy cho vừa. Phải vậy chăng, mà Tô Thùy Yên tình nguyện làm người chép sử bằng thơ?
Ta về cúi mái đầu sương điểmNghe nặng từ tâm lượng đất trờiCảm ơn hoa đã vì ta nở Thế giới vui từ nỗi lẻ loi.
Đây là một khổ thơ có thể cắt riêng thành một bài tứ tuyêt tài hoa, chứa đựng những triết lý nhân sinh sâu sắc. Người xưa dạy, rộng lớn nhất là đại dương, rộng hơn đại dương là bầu trời, rộng lớn hơn cả bầu trời chính là lòng người. Tô Thùy Yên đã giải phóng mình khỏi nỗi hận thù, thấm nhuần giáo lý từ bi hỉ xả của nhà Phật, để lòng mình sánh ngang với trời đất, lắng nghe và cảm tạ lượng đất trời. Vì mình từ tâm nên mới nhìn thấu đất trời từ tâm. Ai đã từng trải qua những cảnh ngộ mà nhà thơ từng trải, sẽ hiểu rằng, được sống, được trở về từ nơi đã từng đày đọa mình “thành vượn cổ sơ”, là may mắn đến nhường nào. Chính vì thế, cuộc đời dù cay đắng vẫn đáng yêu đáng sống, khi vượt qua địa ngục trần gian càng biết trân quý những vẻ đẹp quanh mình. Ngắm một đóa hoa nở cũng đủ coi như ân điển.
Thấp thoáng từ những câu thơ tài hoa là nụ cười an nhiên của người đã qua kiếp nạn, thấm đẫm tinh thần của Lão, Trang, nhìn thấy Đạo ngay từ cánh hoa, ngọn cỏ. Tâm thiện mở ra tận cùng mới cảm nhận được sự từ tâm vô lượng của vũ trụ. Tô Thùy Yên đã chạm tới cái vô hạn của nhân chi sơ tính bổn thiện. Không phải tới khi trải qua khổ nạn, Tô Thùy Yên mới thấu lẽ vô vi. Trong thời kỳ chiến tranh, ông đã có những vần thơ xót xa cho người lính phía bên kia chiến tuyến vừa sốt rét vừa đói lả nhưng vẫn xích lời nguyền sinh Bắc tử Nam để rồi từ đó bật lên khát khao nhân bản, giá như cả hai đều gom góp sức lại thì mặt đất này khác đến bao nhiêu. Ngay thời điểm chiến tranh đang hồi ác liệt, mà có sự bao dung, vượt lên trên chiến tuyến đó, còn là gì nếu không phải tâm thế của người vượt thoát giỏi các giới hạn, mà cụ thể trong hoàn cảnh này, là vượt lên hận thù ý thức hệ để nhìn xa hơn cho tương lai dân tộc, bởi nhân thức được sự hữu hạn của kiếp người?
Khổ thơ tiếp theo bừng thức như ánh sáng chói lòa trong một giấc mơ:
Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửaLàng ta ngựa đá đã qua sôngNgười đi như cá theo con nướcTrống ngũ liên nôn nả gióng mừng.
Ngập tràn không khí cổ thi của một thời chinh chiến. Nhà nhà, người người lên đường theo tiếng trống trận, theo điệu kèn xuất binh hùng tráng. Nô nức ra đi nô nức lên đường. Đến cả con ngựa đá cũng không cầm lòng được, cũng biết sang sông. Những câu thơ linh hoạt hẳn lên, bừng sáng, giàu màu sắc, hình ảnh, âm thanh, gợi tôi nhớ tới lời sấm Ngựa đá sang sông của cụ Trạng Trình, sông đổi dòng để ngựa đá qua bờ bên kia, thời cuộc thay đổi. Phải chăng, đó chính là ước mộng của một chiến binh kiêu dũng, vừa thoát ngục tù từ bên kia chiến tuyến đã mơ tìm lại nước, ước mơ tìm được đấng minh quân để tạo dựng cơ đồ? Không hiểu sao, đọc khổ thơ này, trong trí óc tôi lại cứ hiện lên hình ảnh bao con người có vẻ ngoài lầm lũi, cam chịu, nhẫn nại đang ngày đêm âm thầm cho những cuộc vượt thoát. Bằng đường biển, đến con ngựa đá cũng sang sông, cũng muốn ra đi. Giấc mộng mãi mãi chẳng viên thành, chỉ còn lại thực tại ê chề cay đắng nên lời thơ như có máu lệ sa xuống đầu ngọn bút.
Ta về như lá rơi về cội… đoàn tụ, xum vầy, nhân quần tề tựu quanh bếp lửa. Bởi mười năm mới được trở lại nhà. Giang hồ có kẻ “một tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà”, huống chi người mười năm mới được ngồi bên bếp lửa đang độ cuối thu. Chén rượu hồng đây rưới xuống. Cho bạn. Cho thù. Cho những ai còn sống và đã khuất. Cho chiến hữu còn âm u đất lạ quê người trong cảnh lao tù, cho cả những người đã tự chọn cho mình một con đường, bỏ nước ra đi. Tha thứ và làm lại từ đầu cho được thành người, không để kẻ nào vùi dập. Ngôn từ ngậm ngùi, hình ảnh đẹp bi tráng, không khí cổ thi vẫn đậm đặc.
Ta về như hạt sương trên cỏ… hạt sương đẹp, khúc xạ cả mặt trời, trong sáng, tinh khôi nhưng lại ngắn ngủi, phù du đến vô thường, nên người ta hay ví sự ngắn ngủi của kiếp người, của cuộc đời như là sương trắng. Hạt sương trên cỏ chính là bước đi của thời gian, ngắn ngủi hữu hạn đặt cạnh vô cùng vô tận để rồi chợt nhận ra satna bên cạnh vĩnh hằng. Tuy mong manh nhưng lại chứa sức sống mãnh liệt của không gian, thời gian, đa diện, đa sắc, phải vì thế chăng mà ở câu thơ sau tác giả nhắc tới sinh, dị, diệt trong Đạo Phật để tìm cho thấy cái tâm thế an nhiên tự tại. Đời người như gió như sương. Đời người như chớp mắt. Đặt cạnh số phận dân tộc, nó càng mong manh, vô thường. Ai rồi cũng hư vô. Vậy mà hạt sương bé bỏng vẫn phải tội tình. Hãy liên hệ với thực tại khi đó của thân phận những người tù vừa ở trại cải tạo về để cảm nhận tâm thế chấp nhận hoàn cảnh và lời than thầm của nhân vật trữ tình.
Ta về như sợi tơ trời trắngChấp chới trôi buồn với nắng hanh…Ta về như tứ thơ xiêu tánTrong cõi hoang đường trắng lãng quên…
Một loạt hình ảnh tỉ dụ với những hình ảnh chỉ sự hữu hạn, mong manh, hư vô, đẹp đến mơ hồ.
Ta về khai giải bùa thiêng yểmThức dậy đi nào gỗ đá ơiHãy kể lại mười năm chuyện cũMột lần kể lại để rồi thôi.
Có bùa thiêng nào kể lại được nỗi nhà mười năm xa vắng? Gỗ đá không thức dậy. Nhưng cảnh đấy người đây luống đoạn trường. Từng mái, vách, tường xiêu, nhện giăng, khói ám, mối xông, giậu nghiêng cổng đổ, thềm cỏ um tùm, khách cũ không còn ai, người mất, người tù, người biệt tích… há chẳng phải cảnh vật đang kể lại một câu chuyện vô ngôn của cảnh nhà đơn chiếc, cha mẹ già như đĩa dầu hao, vợ lặn lội chạy ăn từng bữa nuôi con chờ chồng, những đứa con lớn lên không có bóng dáng cha đó sao? Đoạn thơ nói về cảnh vật mà người đọc hình dung ra bao biến cải bể dâu, nhớ tới câu thơ của Nguyễn Gia Thiều: “Phong trần đến cả sơn khê/ Tang thương đến cả hoa kia cỏ này”. Chỉ cần nhắc một lần để rồi phải sống. Hãy nhớ, bên cạnh yếu tố triết học, những ám ảnh không gian, thời gian, cảm thức sâu sắc về lẽ biến dịch, về sự tuần hoàn, thơ Tô Thùy Yên chính là thi sử, là những trang đời âm thầm máu lệ của ông và những đồng hữu thời hậu chiến, và vượt lên tất cả là khí phách là thái độ sống của một người quân tử, không trói buộc lòng mình vào hận thù, khắc hận thù vào trong dạ nhưng không để nó làm vẩn đục đời sống tinh thần.
Những câu thơ dành cho người vợ tào khang khiến người đọc không khỏi xúc động.
Ta về như tiếng kêu đồng vọngRau mác lên bờ đã trổ bôngCho dẫu ngàn năm em vẫn đứng Chờ anh như biển vẫn chờ sông.
Ca dao Nam Bộ có câu: Chờ anh em quá sức chờ/ Chờ cho rau mác lên bờ trổ bông. Rau mác cùng họ với lục bình, nhưng lá nhọn như hình lưỡi mác. Hoa cũng tim tím như lục bình nhưng bông nhỏ và ít hoa hơn. Nếu lục bình nổi lênh đênh trên mặt sông, kênh rạch, thời gian sinh trưởng ngắn thì rau mác có thể sống nhiều năm, mọc cố định ở đồng bưng, về mùa nước nổi, rau mác theo nước vươn lên, cọng trắng phau, mập tròn, có thể bứt làm thức ăn. Rau mác luôn mọc chòi lên bờ, như ước muốn thoát khỏi thân phận cây dại. Rau mác trổ bông quanh năm, vậy mà cô gái đã trách chàng trai để mình “quá sức chờ” lối nói thậm xưng chỉ sự ngóng trông đằng đẵng. Vậy mà 10 năm đợi chờ, bao nhiêu mùa rau mác trổ bông? Đủ thấy tấm lòng người vợ trung trinh với tiếng lòng đồng vọng. Em vẫn chung thủy đợi chờ, như lẽ tất nhiên, như điều bình dị, như lòng biển mênh mông nhẫn nại.
Có người cho rằng, đây là so sánh thiếu tế nhị, thiếu mềm mại và không thích đáng. Kể ra không phải không có lý. Biển vĩ đại, sóng ngầm, bão tố, phong ba…đặt người đàn bà trong so sánh với biển, dữ dội quá, tuồng như không giống với những phẩm chất dịu hiền, thương khó mặc định của đàn bà Việt. Nhưng hãy đọc lại bao trang viết về những người vợ có chồng đi cải tạo, vừa lặng thầm chăm lo cha mẹ, vừa như con gà mẹ xù cánh che chở nuôi dạy con khỏi sự cô lập, kỳ thị của người đời, vừa thu vén chắt bóp thăm chồng đường xa vạn dặm, không chỉ đối mặt với bao khó khăn về vật chất, mà cái khổ lớn nhất là sự chịu đựng, o ép, đe dọa về tinh thần, thì không so sánh nào sâu sắc, hàm ơn bằng hình ảnh người vợ chờ chồng như biển chờ sông.
Ta về như nước Tào Khê chảyTinh đẩu mười năm đã nhạt mờ……Người chết đưa ta cùng xuống mộĐâu còn ai nữa đứng bờ aoKhóc người ta khóc ta rơi rụngTuổi hạc ôi ngày một một hao.
Những câu thơ này đặc phong vị Bắc. Nó làm người đọc liên tưởng tới câu ca dao thao thiết Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn/ Tào Khê nước chảy vẫn còn trơ trơ và Đêm qua ra đứng bờ ao/ Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ. Tôi không biết khi viết những điển tích, những chỉ dấu Bắc kỳ tuyệt đẹp này, ông đã đọc những câu ca dao Bắc này chưa, nếu chưa, thì quả thực chất Bắc đã ngấm vào hồn thơ ông hồn nhiên, nhuần nhị như năm xưa Tướng quân Trần Nhật Duật lên miền ngược uống rượu với người Man, thuần thục đến mức được coi như gã người Man chính hiệu.
Tôi đặc biệt thích khổ thơ:
Ta về như bóng ma hờn tủiLục lại thời gian kiếm chính mìnhTa nhặt mà thương từng phế liệuNhư từng hài cốt sắp vô danh.
Tại sao lại là “bóng ma hờn tủi”? Là bởi vì bị bức tử về tinh thần, bị o ép về mặt thân xác, đã thành một con ma người tồn tại ở cái buổi nghi kị, tố giác, căm thù và độc địa. Nhưng nhân vật trữ tình trong thơ Tô Thùy Yên, luôn luôn cảm nhận rõ cảnh ngộ, thân phận, và có phần nào an phận, nhưng tuyệt đối không cúi đầu. Vượt lên tất cả nghịch cảnh là sự tiếc nuối, xót xa, thương yêu, bao dung và tha thứ. Buộc phải “chết”, bị ép vào tuyệt lộ nhưng vẫn không bao giờ đánh mất mình. Mười năm ta vẫn cứ là ta. Điềm đạm, ngang tàng, uy vũ bất năng khuất. Nếu ở khổ thơ trên, một bông hoa nở cũng đủ để nhà thơ cúi đầu cảm tạ, thì tới đây, ông lại “thương từng phế liệu”, những dấu tích thời chiến, dấu tích của cuộc đời khác, thuở được làm người.
Một mối tương liên khi nhìn những mảnh phế liệu mà nghĩ tới phận mình, mình giờ đây có khác gì mảnh phế liệu thành vô danh ngay trên mảnh vườn nhà. Nhìn thấy ở mỗi sự vật đều có linh hồn, để mà thương lấy mình, để mà sống cho nhân ái khoan hòa. Tâm thế đó dường như là một chất riêng của thơ Tô Thùy Yên. Ông vượt thoát các giới hạn, không phải để lảng tránh, mà để đối mặt, nhìn rõ bản chất, không để hận thù mà để thứ tha. Bởi thế, tôi cho rằng, thơ Tô Thùy Yên còn giàu Phật tính, không chỉ riêng trong bài thơ này.
Ta về như hạc vàng thương nhớMột thuở trần gian bay lướt quaTa tiếc đời ta sao hữu hạnĐành không trải hết được lòng ta.
Từ ngàn xưa, trong tâm thức văn hóa Á Đông, Hạc được ví như chim thiêng, là linh vật bất tử trong thế giới loài chim. Hạc có sải cánh dài rộng, bay vút trời cao, vượt muôn trùng mây, sánh với người ưu tú có năng lượng sống dồi dào, mạnh mẽ đương đầu khó khăn sóng gió, lại trong sạch thuần khiết giống bậc quân tử, tiếng kêu thánh thót của nhân tài. Do đó, Hạc được xem như biểu tượng của trí tuệ và cốt cách thanh cao, vượt khỏi đời tầm thường tục lụy. Đây là khổ thơ xứng làm cái kết cho bản trường thi lộng lẫy, thể hiện sự song hành giữa cái hữu hạn bên cạnh cái vô hạn, giữa thanh cao và tục lụy, giữa buông xả và luyến thương. Đời là cõi tạm, còn ta chỉ như loài chim quý trót nặng lòng thương nhớ trần gian một thuở làm người mà về lại bên đời, để rồi vỗ cánh. Thế thì những tù đầy, oan trái còn xảy ra thêm vài lần nữa cũng có gì đáng sợ. Trong tầm vòng giới hạn của kiếp người, Tô Thùy Yên đã làm được điều mà ông hằng trăn trở. Dù đời người hữu hạn, vũ trụ vô cùng, nhưng bằng những thi phẩm để lại cho đời, ông xứng là con chim hạc bay qua miền đất này và cất tiếng lòng bi tráng, thống thiết, thánh thót, chạm tới tận cùng những cung bậc cảm xúc.
TA VỀ- Đâu chỉ là về với quê hương bản quán mà nó còn là cuộc trở về với bản thể, trở về với chính mình để truy tìm những câu hỏi lớn: Rốt cuộc, sau bao nhiêu thống khổ, ta là ai? Ta là cánh hạc vàng bay trong chiều thương nhớ để dâng đời khúc hát của một đời ly loạn, không phải để hận thù, chia biệt, mà để loài người biết thương xót nhau thêm.
Trong lần trả lời phỏng vấn của báo Người Việt gần đây, Tô Thùy Yên có kể lại một kỷ niệm rằng, thập niên 90, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền trong khi thu xếp để chờ đi Mỹ, khi đến nhà chơi có nói: “Đất nước này rồi sẽ phải trải qua những biến động lịch sử tan tác kinh hồn chẳng thể cản tránh được, tôi ra đi xa lánh, anh còn ở lại, anh hoặc là ai đó sẽ phải viết một bài thơ mà chất liệu là núi xương sông máu, là hàng triệu cái xác chết”. May mắn, tới bây giờ thi nhân Việt Nam chưa ai phải viết ra tác phẩm như Thanh Tâm Tuyền dự đoán, nhưng với khối lượng sáng tác đáng nể, Tô Thùy Yên đã tạc lên một Cõi Người, một Cõi Phật, một Cõi Lão, Trang, một Thời Đại đặc biệt bằng thi ca, và như thế, trong mắt những người yêu thơ Tô Thùy Yên, thì ông mãi mãi MỘT BÓNG TRÊN ĐƯỜNG LỚN.
Thảo Dân 


Nghĩ VThơ Tô Thùy Yên,
thơ by ch có uy thế hơn thơ t do
Trn Văn Nam






          Xin lướt qua những bài báo viết về Tô Thùy Yên, sau đó người viết mong đóng góp thêm được một điều gì mới:

          1/Võ Phiến viết về khía cạnh siêu hình trong thơ của tác giả này; và về sau trong một bài khác, ông  nói thêm siêu hình là nội dung làm nên tác phẩm lớn: tác phẩm lớn không chỉ luẩn quẩn ở cách dùng chữ, ở kỹ thuật, ở sáng tạo hình thức văn chương (trong tạp chí Văn Học, số 145, tháng 05/1998).

           2/Bùi Vĩnh Phúc có một bài nghiên cứu rất quy mô về Tô Thùy Yên, nhưng đọc qua phần giới thiệu các nội dung nghiên cứu, ta thấy thiếu vắng vấn đề thời thế rất đậm nét trong thơ thi sĩ. Phần hình thức, ông trình bày rõ cách sáng tạo từ ngữ độc đáo của nhà thơ, gồm có cách chọn lựa ngôn ngữ theo quan hệ tương đương, theo quan hệ giáp cận, theo cách hoán chuyển từ loại (danh từ thành tính từ, hoặc dùng trạng từ động từ ngoài quy ước của lời nói bình thường), và sự dồi dào những từ có âm đôi như “mịt mịt, ngất ngất, tuôn tuôn”... trong thơ Tô Thùy Yên (trong tạp chí Hợp Lưu số 7 và số 8/1992).

           3/Và Nguyễn Tà Cúc liên hệ vấn đề "người Nam giọng Bắc", nhận định "mỗi địa phương có cái đặc biệt cái xuất sắc riêng. Để tả những xuất sắc, đặc biệt ấy, không có gì tốt hơn, toàn hảo hơn, là dùng những từ ngữ địa phương ấy... Chỉ nên xem xét họ có đích thực, có xứng đáng là nhà thơ hay không, như trường hợp Tô Thùy Yên" (trong tạp chí Khởi Hành số 10, tháng 8/1997).


          Nhân đây, người viết muốn bổ túc bài báo có nói phớt qua về Tô Thùy Yên, bài "Ma Lực Của Ngôn Ngữ" (trong Tạp chí Khởi Hành số 8, tháng 6/1997). Xin bổ túc vắn tắt bằng cách trích ra đây để phân biệt giữa những câu thơ mới ở cách dùng từ chưa ai có và những so sánh lạ dễ "bắt mắt"; tương phản với cách dùng ngôn ngữ quy ước và so sánh quen thuộc khuôn sáo. Thơ bảy chữ nào của Tô Thùy Yên cũng ít nhiều hiện diện những tân kỳ rất nghệ thuật của ông. Ví dụ tân kỳ ở từ ngữ “trí nhớ không” thay cho trí nhớ không còn gì bận tâm; ở thi-ảnh mái ngói nghiêng nghiêng cho trái rụng lăn; ở hốc mắt sâu thành hốc mắt khoen sâu; ở so sánh cánh lá bung như linh hồn đang bay ra; hoặc ở so sánh con đường sáng đèn như con dao rạch vào bóng đêm:



… Con chim thoát xác thành cơn mộng

Bay liệng dài trên trí nhớ không

… Chó tru, thăm thẳm ngây thiên địa

Mái ngói nghiêng triền trái rụng lăn

… Dựng dậy hồn oan dĩ vãng nào

Con chim thần thoại mắt khoen sâu

… Yêu cả con sâu cùng cái kiến

Thả hồn theo cỏ lá bung phơi

… Con đường duỗi sáng như dao bén

Rọc điếng hồn đêm chẳng kịp la



          Ngược với tân kỳ, ta thử lấy ra vài ví dụ về từ ngữ thật quen và cấu trúc bình thường trong thơ Tô Thùy Yên; thấy như không có câu nào có vẻ nằm ngoài quy ước của lời nói, nhưng đây là những giản dị mà thật ra tuyệt kỹ. Nhà thơ Tô Thùy Yên từng đồng ý là làm sao đạt tới sự tự nhiên mà rất thơ đó: "Bậc võ công thượng thừa không để cho thấy chỗ tuyệt tử công phu của mình" (Nguyễn Mạnh Trinh phỏng vấn Tô Thùy Yên trong tạp chí Hợp Lưu số 24 tháng 09/1995). Vậy ta đừng vạch tìm, vì công phu tập luyện của những câu thơ này chỉ nên tiếp nhận bằng cảm tính của tâm hồn:



…Cơn gió mơn man bờ bụi rậm

Kể dạo quanh vườn chuyện trống không

… Thảng như con ngựa già vô dụng

Chủ bỏ ngoài trăng đứng một mình

…Đau khổ riêng gì nơi gió cát

Hè nhà, bụi chuối thức thâu đêm

… Nhặt tàn thuốc cũ se thành điếu

Gẫm lại đời ta chút khói cay



         Bây giờ ta mới đi thẳng vào vấn đề: tại sao chỉ những bài thơ bảy chữ của Tô Thùy Yên mới dồi dào những câu thơ xuất sắc (gồm chung thơ tân kỳ và thơ "tuyệt tử công phu" thấy như rất đơn sơ bình thường). Tô Thùy Yên thường sáng tác theo thể thơ mới bảy chữ và thể thơ tự do, nên ta chỉ so sánh để thấy sự dị biệt trong hai thể thơ này. Ông chỉ làm một ít thơ lục bát và vài thể thơ khác. Trong thơ tự do, có lẽ rất thưa thớt hình ảnh tân kỳ theo phương pháp so sánh, và cũng không nhiều những ngôn ngữ mới lạ do hoán chuyển từ loại hoặc dùng tính từ trạng từ ngoài quy ước văn phạm. Trái lại, hầu như bài thơ bảy chữ nào của Tô Thùy Yên cũng thấp thoáng hiện diện ít nhiều ngôn ngữ thơ như vậy. Phải chăng mỗi nhà thơ chỉ tương đắc với một thể thơ mà thôi. Điều này thực sự không đúng khi ta kiểm điểm các thể thơ đã dùng của những nhà thơ nổi tiếng khác. Chỉ khi nào đụng chạm đến thể thơ tự do thì mới nẩy ra vấn đề tương đắc hay không tươngthuyết đối với thơ Tô Thùy Yên nói riêng, và đối với các nhà thơ đã từng làm thơ tự do mà không được đắc ý. Giả thuyết như sau: nhà thơ Tô Thùy Yên chỉ tương đắc với thể thơ có khuôn khổ tương đối, nghĩa là không phải khuôn khổ quá trói buộc niêm luật ở thể thất ngôn Đường luật. Đó là thể thơ bảy chữ theo lối thơ mới, có hạn chế mà cũng tự do. Ta so sánh điều này như một chiếc diều giấy cần phải có sợi dây nắm lại thì mới no gió mà bốc cao, vi vu trên bầu trời. Nếu cắt dây, nghĩa là quá tự do, thì nó lại đâm nhào xuống đất. Một so sánh cụ thể nữa: khi có nắng ban mai mà một vòi nước bắn vào bức tường cản trở, nước sẽ dội lại tung tóe với hơi nước tỏa ra tạo thành ngũ sắc cầu vồng. Nếu không có bức tường cản trở thì vòi nước sẽ rớt vào trống không, sáng tạo không có dịp phát huy. Gặp giới hạn tương đối (số chữ, số câu, nhạc tính), nhà thơ "uốn nắn" tâm hồn để diễn tả cho đạt tứ thơ, nẩy ra sự sáng tạo những lời thi cảm (mỹ cảm, linh cảm, tình cảm). Nhưng không phải tâm hồn ai cũng sáng tạo được ngũ sắc cầu vồng. Cho dù có bức tường ngăn cản làm "đà xuất phát" thì cũng chẳng khác bốn bức tường kín bưng nhốt lại tâm hồn thơ nghèo nàn của họ.

           Giả thuyết "khuôn khổ giới hạn tương đối" chỉ có tính cách chủ quan của người viết bài này, khi nhận thấy sự dồi dào về ngôn ngữ sáng tạo (tân kỳ hoặc đơn sơ tuyệt kỹ) trong thơ bảy chữ, nghĩa là chỉ lưu ý về hình thức văn chương. Biết đâu có những nội dung lớn hoặc ngôn ngữ sáng tạo theo những cách khác nữa mà ta chưa nhận ra trong thơ tự do của ông. Nói về nội dung thì cũng là chạm tới vấn đề sâu rộng cần phải viết thành một bài dài hay cả một cuốn sách. Nhưng nhân đây, ta cũng có thể liệt kê một số nội dung có lẽ ai cũng nhận ra qua các bài thơ mà phần lớn là thơ bảy chữ của Tô Thùy Yên:



  • Tư tưởng đau lòng cuộc chiến tranh (như bài: Qua Sông, Anh Hùng Tận, Chiều Trên Phá Tam Giang)
  • Tư tưởng về nhân thế mang chất hiền triết Đông Phương (như bài: Ta Trở Lại Gian Nhà Cỏ; Tưởng Tượng Ta về Nơi Bản Trạch; Em Nhỏ, Làm Chi Chim Biển Bắc; Trường Sa Hành).
  • Tư tưởng hoài cảm thời thế đổi thay nhưng cũng hé lộ sự lạc quan về tình người muôn thuở (như bài: Mùa Hạn, Tàu Đêm, Ta Về, Nỗi Đợi).


          Nói theo nhà văn Võ Phiến, tác phẩm lớn thường nghiêng về đề tài siêu hình, như "Nam Hoa Kinh" của Trang Tử, "Dịch Hạch" của Camus, "Bán Linh hồn Cho Quỷ” của Goethe… Nhà văn nhắc đến làm ta nhớ lại truyện phim "Địa Ngục Môn", đây cũng là tác phẩm siêu hình nhưng cuối cùng nhân vật tỉnh ngộ không theo về với quỷ: "Đêm qua anh võ sĩ đạo đi vào Địa Ngục Môn với ý nghĩ giết người thì hôm nay bước ra khỏi Địa Ngục Môn với áo nhà sư" (dẫn trong "Văn Học Phân Tích Toàn Thư" của Thạch Trung Giả, trang 529). Một bài thơ của Tô Thùy Yên, bài "Trường Sa Hành", cũng mấp mé ở biên bờ siêu hình đó.


          Ta đang bàn về thể thơ, về sáng tạo ngôn ngữ thơ, nghiêng về mỹ cam của hình thức văn chương. Ta cũng mới lướt qua về nội dung tư tưởng. Hình như quá ít lời về tình cảm trong thơ. Vậy thì xin nói luôn: theo thiển ý thì bài thơ "Tàu Đêm" của nhà thơ Tô Thùy Yên làm ta cảm động hơn hết. Hình như chuyến tàu xe lửa nào cũng buồn. Nhưng chuyến tàu trong bài thơ "Vu Vơ" của Tế Hanh hoặc "Chuyến Tàu Đêm" của Nguyễn Bính là những nỗi buồn biệt ly thông thường thời bình yên, đi làm ăn tạm thời xa nhau. Cái buồn trong bài thơ "Tàu Đêm" của Tô Thùy Yên lắng đọng hơn nhiều; có liên hệ đến một thời chiền tranh lớn trong lịch sử Việt Nam:



Tàu đi khoan xoáy sâu đêm thép

Tiếng nghiến ghê người, thác lửa sa!

Lịch sử dường như rất vội vã

Tàu không đỗ lại các ga qua.



Ôi những nhà ga rất cổ xưa

Dường như ta đã thấy bao giờ

Đến nay, người giữ ga còn đứng

Đèn bão đong đưa chút sáng mờ.



Tàu qua những ruộng đồng châu thổ

Hiu hắt làng xa mấy chấm đèn

Đêm ở nơi đây buồn lặng lặng

Cái buồn trải nặng mặt bằng đen.



Hỡi cô con gái trăng mười bốn

Đêm có nằm mơ những hội xuân

Đời có chăng lần cam dối mẹ

Nhớ thương nào giấu thấm vành khăn?

…….

Tàu ơi hãy kéo còi liên tục

Cho tiếng rền vang dậy địa cầu

Lay động những tầng mê sảng tối

Loài người hãy thức, thức cùng nhau.



          Chuyến Tàu Đêm chở đoàn tù biệt xứ đi ra ngoài Bắc qua thơ Tô Thùy Yên như một lời trăn trối, thấy ngày mai vô định. Với viễn tượng đi tới cuối đời nên trong đó pha trộn hoài niệm thời thơ ấu; nhớ niềm vui nơi thành phố đông đúc xưa; một chút trữ tình gợi đến những lời hát dân gian khi tàu chạy qua các làng mạc im lìm ở ngoài Bắc; tự cảm thấy là một phần tử dưới bánh nghiến lịch sử; kêu gọi nhân thế thức dậy vì hình như mọi người đều lãng quên chuyến tàu vô định đang lao vào bóng đêm./

 Trần Văn Nam

Tô Thùy Yên, gõ cửa thiên thu
Mặc Lâm / VOA

Tôi biết làm thơ từ khi còn rất nhỏ nhưng mãi tới gần tuổi năm mươi mới thật sự đọc được thơ qua một người mà càng đọc tôi càng được mở ra những cánh cửa khác của sự mầu nhiệm từ thi ca. Người làm thơ ấy là Tô Thùy Yên, một ánh sáng khơi gợi niềm cảm hứng, một cành khô giữa rừng có khả năng giúp người đi lạc trong cơn mê muội thẳm sâu của hưng phấn tìm được lối ra, một lẻ loi của cây xương rồng giữa sa mạc có khả năng chống lại sự cô đơn mà thượng đế giao phó.
Thơ của Tô Thùy Yên được rất nhiều người yêu mến vì chất tĩnh trong cái động của nó. Nếu 10 năm tù là trạng thái “động” của những buốt nhức của cơn đau thể xác thì “thế giới vui từ nỗi lẻ loi” là cái tĩnh thiền đạo của một người đã hiểu tường tận nỗi lẻ loi có sinh lực như thế nào. Lẻ loi ấy chỉ có thể hiện hữu trong một tâm thế vị tha, tha thứ những hằn học, những miệt thị, những oán khí của người khác đã dành cho mình. Lẻ loi vì sẽ không có nhiều người làm được. Lẻ loi vì tuy cúi mái đầu sương đã điểm nhưng vẫn tin vào tâm lượng của đất trời vẫn nặng trĩu niềm vui.
Niềm vui ấy Tô Thùy Yên đã tìm thấy sau khi từ giã trại cải tạo về nhà sau hơn 10 năm biệt xứ:
“Ta về cúi mái đầu sương điểm / Nghe nặng từ tâm lượng đất trời / Cảm ơn hoa đã vì ta nở / Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.”
Chất thiền trong thơ Tô Thùy Yên có lẽ được hình thành từ những cơ cực mà cuộc đời ông chứng kiến. Những cái chết anh liệt nhưng thảm thương, những chia ly tràn khỏi bến bờ đau đớn, sự phân hủy cuộc sống đến vô tận đã đày ải tâm linh trước khi chính bản thân ông sụp đổ. Trong bài Qua sông ông viết:
“Áo quan phong quốc kỳ anh liệt / Niềm thiên thu đầm cỗ xe tang / Quê xa không tiện đường đưa tiễn / Nghĩa tận sơ sài, đám lạnh tanh / Thêm một chút gì như hối hả / Người thân chưa khóc ráo thâm tình...”
Những câm nín ấy vẫn ám ảnh ông nhiều năm sau trong bài Ta về, nỗi ám ảnh chiến tranh và tình người, một “hội chứng nghiến răng” của nhân loại: xông vào cái chết để bảo vệ ảo tưởng. Tô Thùy Yên sống và gậm nhấm thời kỳ ấy nên biết từng mùi vị của những lần hành quân đầy máu, máu của bạn bè lẫn đối phương. Máu không những đổ ra từ súng đạn nó cũng đổ ra từ tàn khốc của trại giam. Ám ảnh trở thành thói quen và Tô Thùy Yên lẩm bẩm sợ cho cơn thất lạc của chính mình:
“Ta về như bóng ma hờn tủi / Lục lại thời gian, kiếm chính mình / Ta nhặt mà thương từng phế liệu / Như từng hài cốt sắp vô danh”
Trong những cuộc hành quân ấy Tô Thùy Yên không ít lần thấy vẻ đẹp tiềm ẩn phía sau những quả mìn tàn nhẫn, những bức tranh được ông phác thảo vội vã miêu tả cái mỏi mệt của thiên nhiên quyện lấy con người như một định mệnh khắc nghiệt. Con người thì rã rời trời thì thấp và ướt sũng, mây trên trời lục bình dưới sông tất cả như hòa nhịp cho một bản nhạc buồn chỉ có chiến tranh mới có thể tạo ra được:
“Đây ngã ba sông, làng sát nước / Xuồng ba lá đậu kế chân bàn / Trời mới tạnh mưa còn thấp ướt / Lục bình, mây mỏi chuyến lang thang”
Tô Thùy Yên là một nhà thơ, đã hẳn, tuy nhiên ông còn là một họa sĩ thiên tài. Thơ ông đầy màu sắc quyết liệt chói chang của mặt trời, lạnh lẽo cô đơn như nước biển, và hơn cả tranh, màu sắc trong thơ ông phảng phất hình bóng con người. Trong “Trường sa hành”, một bài thơ quan trọng trong sự nghiệp thi ca của ông chúng ta có thể đồng ý với nhau ở điểm: màu sắc đã tạo thơ ông khác biệt vượt qua rất nhiều tác giả khác củng thời. Chỉ có điều không như hội họa, chúng ta chỉ thấy hai màu xanh lơ và đen trong cả bài thơ nhưng trong lòng lại bùng vỡ hàng loạt những gam màu khác: Đỏ úa của mặt trời trong ánh chiều tà mà tác giả gọi là “chiều rã” Những thay đổi quang phổ của rong biển, những long lanh từ muôn vạn tầng màu làm hồn ta lay động, màu lửa cháy rực cả đào khiến chim cũng đen úa cả tiếng xao xác quần bay. Miếng mồi cháy một màu khét khói cũng không khỏi ngậm ngùi…
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh

Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
Kinh động đất trời như cháy đảo...
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân

Ta ngồi bên đống lửa man rợ
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi
…..

Rồi nữa, kế sau màu sắc là âm thanh. Thứ âm thanh kinh khủng của tiếng gọi không thành lời. Âm thanh bị bóp nghẹt giữa hư vô. Âm thanh rơi vào một khoảng cách đặc sệt của không gian đóng kin:
“Đất liền, ta gọi, nghe ta không? / Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng / Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc / Con chim động giấc gào cô đơn”
Viết về Tô Thùy Yên phải cần cả cuốn sách, một vài trang giấy không những bất toàn mà còn hời hợt. Nhưng sự ra đi của ông nếu không thể thắp bằng đuốc để tưởng nhớ thì đành dùng một nén nhang cũng đủ để tiển đưa ông. Trong tâm thế ấy cùng chia sẻ với những gì mà năm 1991 ông đã viết trong trại biệt giam 3C Tôn Đức Thắng:
Ta nằm xuống
Dỗ mình hãy cố ngủ
Tập quen dần với giấc thiên thu

Hãy ngủ, ông nhé và tôi tin rằng những gì ông để lại thế gian này cũng thiên thu không kém….
https://www.voatiengviet.com/a/to-thuy-yen-go-…/4928531.html

Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
(Ca dao)
1.
Chiếc trực thăng bay là mặt nước
Như cơn mộng nhanh
Phá Tam Giang, phá Tam Giang
Bờ bãi hỗn mang, dòng bát ngát
Cát hôn mê, nước miệt mài trôi
Ngó xuống cảm thương người lỡ bước
Trời nước mông mênh, thân nhỏ nhoi
Phá Tam Giang, phá Tam Giang
Nhớ câu ca dao sầu vạn cổ
Chiều dòn tan, nắng đọng nứt ran ran
Trời thơm nước, thơm cây, thơm xác rạ
Thơm cả thiết tha đời
Rào rào trận gió nhám mặt mũi
Rào rào trận buồn ngây chân tay

Ta ngó thấy ghe thuyền quần tụ
Từng đoàn như trẻ nhỏ ghê ma
Ta ngó thấy thuỳ dương gãy rủ
Từng cây như nỗi bất an già
Ta ngó thấy rào chà cản nước
Từng hàng như nỗ lực lao đao
Ta ngó thấy nhà cửa trốc nóc
Từng ngôi như mặt đất đang gào
Vì sao ngươi tới đây?
Hỡi gã cộng quân sốt rét, đói
Xích lời nguyền sinh Bắc, tử Nam
Vì sao ta tới đây?
Lòng xót xa, thân xác mỏi mòn
Dưới mắt người làm tên lính nguỵ

Ví dầu ngươi bắn rụng ta
Như tiếng hét
Xé hư không bặt im
Chuyện cũng thành vô ích
Ví dầu ngươi gục
Vì bom đạn bất dung
Thi thể chẳng ai thâu
Nào có chi đáng kể
Nghĩ cho cùng, nghĩ cho cùng
Ví dầu các việc ngươi làm, các việc ta làm
Có cùng gom góp lại
Mặt đất này đổi khác được bao nhiêu?
Ngươi há chẳng thấy sao
Phá Tam Giang, phá Tam Giang ngày rày đâu đã cạn?

Ta phá lên cười, ta phá lên cười
Khi tưởng tượng ngươi cùng ta gặp gỡ
Ở cõi âm nào ngươi vốn không tin
Hỏi nhau chơi thoả chút tính bông đùa:
Ngươi cùng ta ai thật sự hy sinh
Cho tổ quốc Việt Nam - một tổ quốc...?
Các việc ngươi làm
Ngươi tưởng chừng ghê gớm lắm
Các việc ta làm
Ta xét thấy chẳng ra chi
Nên ngươi hăng điên, còn ta ảm đạm
Khi cùng làm những việc như nhau

Ta tự hỏi vì sao
(Còn ngươi, có bao giờ ngươi tự hỏi?)
Và ta tự trả lời
(Có bao giờ ngươi tự trả lời?)
Chúng ta khác nào cánh quạt phi cơ
Phải quạt, phải quạt
Chỉ vì nó phải quạt
Ta thương ta yếu hèn
Ta thương ngươi khờ khạo
Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng
Nên cả hai cùng mắc đường Lịch Sử
Cùng mê sa một con đĩ thập thành

Chiều trên phá Tam Giang rộn ràng tiếng chiến trận
Chiều trên phá Tam Giang im lìm âm cảm thông

2.
Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận

Giờ này thương xá sắp đóng cửa
Người lao công quét dọn hành lang
Những tủ kính tối om
Giờ này thành phố chợt bùng lên
Để rồi tắt nghỉ sớm
(Sài Gòn nới rộng giờ giới nghiêm
Sài Gòn không còn buổi tối nữa)
Giờ này có thể trời đang nắng
Em rời thư viện đi rong chơi
Dưới đôi vòm cây ủ yên tĩnh
Viền dòng trời ngọc thạch len trôi

Nghĩ tới ngày thi tương lai thúc hối
Căn phòng cao ốc vàng võ ánh đèn
Quyển sách mở sâu đêm
Nghĩ tới người mẹ đăm chiêu, đứa em quái quỷ
Nghĩ tới đủ thứ chuyện tầm thường
Mà cô gái nào cũng nghĩ tới
Rồi nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Một cách tự nhiên và khốn khổ
Giờ này có thể trời đang mưa
Em đi nép hàng hiên sướt mướt
Nhìn bong bóng nước chạy trên hè
Như những đoá hoa nở gấp rút
Rồi có thể em vào một quán nước quen
Nơi chúng ta thường hẹn gặp
Buông tâm trí bập bềnh trên những đợt lao xao
Giữa những đám ghế bàn quạnh quẽ

Nghĩ tới anh, nghĩ tới anh
Cơn nghĩ tới không sao cầm giữ nổi
Như dòng lệ nào bất giác rơi tuôn
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Của chiến tranh mà em không biết rõ
Nghĩ tới, nghĩ tới một điều hệ trọng vô cùng
Một điều em sợ phải nghĩ tới
Giờ này thành phố chợt bùng lên

Chiều trên phá Tam Giang
Anh sực nhớ em
Nhớ bất tận

Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Rực chiếu bao nhiêu giấc mộng đua đòi
Như những mặt trời con thật dễ thương
Sẽ rơi rụng dọc đường lên dốc tuổi
Mỗi sáng trưa chiều tối đêm khuya
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Coi chuyện đó như lần đi tuyệt tích
Trong nước trời lãng đãng nghìn trùng
Không nghe thấy cả tiếng mình độc thoại
Anh yêu em, yêu nuối tuổi hai mươi
Thấy trong lòng đời nở thật lẻ loi
Một cành mai nhị độ
Thấy tình yêu như vận hội tàn đời
Để xé mình khỏi ác mộng
Mà người đàn ông mê tưởng suốt thanh xuân

Ôi tình yêu, bằng chứng huy hoàng của thất bại!

3.
Chiều trên phá Tam Giang
Mày nhìn con nước xiết
Chảy băng bờ bãi ngổn ngang câm
Nghĩ tới, nghĩ tới những công trình mày có thể hoàn thành
Mà rồi mày bỏ dở
Nghĩ tới kiếp người đang lỡ độ đường
Trên mịt mùng nghi hoặc
Nghĩ tới thanh xuân mất tích tự đời nào
Còn lưu hậu chua cay hoài vọng
Nghĩ tới khu vườn ẩn cư cỏ cây khuất lấp
Căn nhà ma ám chầy ngày gió thổi miên man
Đụt tuổi già bình an vô tích sự
Như lau lách bờm sờm trên mặt sông nhăn
Cùng cái chết
Cái chết lâu như nỗi héo hon dần
Làm chính mình bực bội
Gió muôn ngàn năm thổi lẽ tuần hoàn
Cho cỏ cây thay đời đổi kiếp
Và mày kinh sợ nghe nhắc điều vượt sức bình sinh
Bởi mày không đủ dạn dày trình diễn tới lui cơn thất chí
Như gã hề cuồng mưu sinh giữa chốn đông người
Với từng ấy tấn tuồng bần tiện
Rút ra từ lịch sử u mê
Gió thổi thêm đi, gió thổi thêm đi
Cho cỏ cây mau chết, mau hồi sinh
Mày mặc kệ

Chiều trên phá Tam Giang
Có gã hề cuồng buông tiếng cười lạnh rợn
Khiến bầy ác thú mà lịch sử sanh cầm cũng chợt hãi hùng
Dớn dác ngó
6-1972
Bài thơ này đã được nhạc sĩ Trần Thiện Thanh phổ nhạc thành bài hát cùng tên.
Nguồn: Tô Thuỳ Yên, Thơ tuyển, Minesota, 1995

No comments:

Post a Comment