Sáng nay, trời bỗng nhiên trắng xóa sương mù. Con đường từ nhà ra bưu điện lác đác những cành khô gẫy như đất trời chuẩn bị cho mùa đông sắp tới. Trời cũng đột ngột đổ lạnh..Dường như cái lạnh đến sớm hơn những mùa đông trước. Mùa thu qua hồi nào không rõ. Thành phố không lá đỏ, không những con đường với hàng cây Maple ngả mầu vàng úa như những tấm hình cô Phương gửi về từ Utah nên Má không thể tưởng tượng được, ở nơi nào đó, có những mùa thu thơ mộng, rực rỡ như thế nào. Thành phố của chúng ta, từ bao năm vẫn vậy. Mùa hạ khô và mùa đông ẩm ướt lừng lững trở về.
Rẽ con đường nhỏ ở ngã tư, Má ngừng xe rất lâu cạnh ngôi trường con học năm lớp 7… Cũng cái bảng Wild Cats vẽ cái đầu mèo nhe răng hôm nào con chụp hình ở đó- năm lớp tám- con ốm nhom, cầm trên tay bao nhiêu là bằng khen, cười ngại ngùng giữa đám bạn bè lớn hơn con một bờ vai. Con mắc cở khi Bố chụp hình con lên nhận giấy khen. Con là cậu bé Á Châu duy nhất trong trường được thầy cô giáo hết lời khen ngợi. Ở ngôi trường đó, suốt mùa đông, con dậy sớm, lúp xúp chạy ra bảng stop ngay ngã tư, co ro đứng đợi xe. Những ngày con về học, có khi quên chìa khóa vào nhà, con đứng ở bậc thềm đợi Má. Mắt buồn ngơ ngác như chú nai con lạc Mẹ. Đôi khi Má về trễ, hỏi con có lạnh không, bao giờ con cũng ngập ngừng "Không lạnh mà con… đói. Má ơi."
Má nhìn vào những dãy lớp học… Không biết bước chân con chạy qua khoảng sân nào, chính xác là phòng học nào con cùng bạn bè sớm chiều ra vào. Sao không hỏi con, để có thể tưởng tượng, con trai của má, trong bộ đồng phục nhà trường... lưng đeo cặp, có chỗ nào con đứng, mỗi ngày, ngóng từ chuyến xe bus mang con về nhà.
Má xếp hàng ở quầy bưu điện. Đồ đạc gửi cho con nhiều quá. Má phải chia làm hai thùng. Thùng giấy lớn đựng hai thùng mì gói (Con thèm ăn mì gói Việt Nam , loại mì trong tô mà ớt cay thật cay. Nếu chua càng tốt. Con dặn). Một số sách của Kellerman, J. K. Rowling, John Grisham. Vài băng game hôm bữa ở nhà con chơi chưa xong (Chắc con không có giờ đâu Má, mà thôi, cứ gửi cho con, khi nào rảnh con chơi với bạn), một số kẹo chua mà hồi còn ở nhà, con ăn xong xả rác đầy phòng.
Thùng nhỏ toàn đồ gia vị. Tương đỏ, tương đen, xì dầu, hành khô thôi thì đủ thứ cho con tự nấu. Ở nhà con vẫn thường bày ra nấu cơm. Nhiều bữa con gọi về "Má ơi. Hôm nay con xào thịt bò cay kiểu Thái đó. Má không phải lo thức ăn chiều đâu nha." Má gửi thêm cho con vài bịch khô bò Bố làm lấy. Loại khô bò nầy chắc không ngon bằng loại ở Houston mà Má vẫn nhờ người bạn mua dùm, nhưng mỗi lần nhận quà, con thường gửi thư về khen lấy khen để "Ngon lắm Má ơi. Con ăn hết rồi . Nhưng kỳ sau, làm cay hơn nữa cho con."
Má định viết cho con mấy chữ, nhưng ngần ngừ chẳng biết viết gì. Bây giờ khoa học tiến bộ quá, computer càng ngày càng tinh vi, người ta chỉ cần gõ lóc cóc vài hàng trên phím , bấm send là thư đi lẹ. Đâu như hồi xưa. Phải viết trên giấy, rồi nào bì thư, nào tem rồi chờ đợi Nhưng nếu hỏi Má có thích kiểu gửi thư bây giờ không. Chắc là không. Nhận một bức thư và nhìn từ nét chữ của người viết, nét cong, nét lượn, vẫn thích hơn là nhưng khuôn chữ có sẵn trên computer… (Chắc là con sẽ cười, sao mà Má chậm tiến quá.)
Má rẽ qua một con đường khác trong thị xã. Con đường này sau bão, người ta mở rộng, sáng sủa hơn. Nhiều nhà được xây mới ngó rất đẹp mắt. Đi cuối con đường, qua một khoảng sân đá banh rộng lớn là ngôi trường High school của con. Trường con vẫn còn nguyên bãi đất ngổn ngang gạch đá bị bão đánh sập và người ta đã đập phá để xây trường mới. (Không biết bao giờ họ xây xong , cơn bão qua đã hơn hai năm và nhà trường vẫn phải mượn trailer của Fema đặt hàng dãy ở sân nhà thờ ) Má xuống xe đi dọc qua khôn viên cũ mà hành lang còn mờ mờ đường xi măng. Dưới hàng cây Magnolia còn sống sót, Má nhớ hôm nào đây, ồ không, dễ chừng hơn ba năm, con đứng đợi Má chỗ nầy, con đi học trễ và Má phải đến trường xin phép cho con vào lớp. Con đã gắn bó với ngôi trường nầy biết bao kỷ niệm. Những chiều má ngồi trong thư viện nhìn con họp lớp, con lúi húi ghi chép gì đó khi thầy giáo đưa cho con tờ giấy hoặc có người phát biểu (Má ngồi xa nhìn không rõ, không nghe con nói gì, nhưng gương mặt con lúc đó nghiêm trang lắm. Có khi con cười, miệng cười tươi ơi là tươi.) Cũng chỗ ngồi nầy, những ngày Má đợi chở con về sau giờ tập thổi kèn trong band, hay những ngày sinh hoạt muộn. Bên kia khán đài, mỗi cuối tuần, con chỉ huy ban nhạc chơi Football (Ban nhạc tên là Pirates of the Carribean, nên con thường mặc áo đỏ, hông đeo kiếm bạc và áo choàng đen phủ dài qua đầu gối. Khi con đánh nhịp cho ban nhạc chơi kèn, hai bàn tay vung cao lên xuống như hiệp sĩ Jean la Fitte chỉ huy đoàn quân lâm trận, ngó hay lắm, làm Bố cười hoài.) Những ngày đông như hôm nay trời lấm tấm mưa, con qua lại giữa sân trường cùng bạn bè trong JROTC, diễn hành, nằm, bò chạy, leo dây đủ thứ.
Con nói, cũng mệt lắm Má ơi, nhưng mà vui.
Từ năm học lớp 10 con đã muốn vào lính rồi.
Cũng ở khoảng sân trường đầy bụi cát, ngổn ngang gạch đá, gỗ vụn, ( hồi đó nó là sân cỏ thẳng tắp xanh mượt) Bố Má dự lễ ra trường của con. Con đứng trên khán đài với 9 bạn, trai có gái có, trong áo tốt nghiệp. Con lên xuống nhiều lần để nhận đủ thứ bằng khen, Trophies. Những tràng pháo tay nườm nượp dành cho con. Trời ơi. Lúc đó Má ước chi người ta biết con là con trai của Bố Má. Hôm đó, hình như Má khóc, và Bố, mắt đỏ hoe Cái thằng bé, mới năm nào từ Việt Nam qua Mỹ ốm nhom, trên máy bay còn ngồi trong lòng Bố, vào học lớp Một còn níu vạt áo Má khóc đòi về mà bây giờ đứng đó, chững chạc biết là dường nào.
Nhưng cũng ngay hôm đó, sau lễ ra trường, con vào lính.
Hình như đâu khoảng tháng Năm.
Gần khuya, Bố Má đưa con đến khách sạn chỗ tụi con tập họp chuẩn bị sáng sớm lên máy bay. Suốt dọc đường gần một tiếng đồng hồ, con nắm chặt tay Má. Có lúc con ôm vai Má, an ủi "Má à, hồi xưa Bố cũng đi lính vậy. Chắc là con giống Bố thôi mà." Hồi xưa… Cũng những lần Má tiễn Bố trở về đơn vị. Giọt nước mắt thấm đẫm vai áo lính. Những lần Má vùi mặt trong ngực áo đẫm mùi mồ hôi, thuốc súng. Những lần tìm Bố ở đơn vị đứng lạc loài giữa mênh mông rừng tràm và xa bên kia đồi, bụi cát mấp mô giữa tiếng súng, tiếng đạn pháo kích tung trời. Tuổi trẻ của Bố, của Má, trôi trong cuộc chiến đầy hiểm nguy, đau thương lẫn bất trắc. Người trở lại chiến trường không biết ngày về. Một lần chia tay tưởng là lần vĩnh biệt. Không còn nước mắt để khóc cho người ở lại lẫn người ra đi. Tưởng rằng qua đây sẽ không còn nỗi lo sợ ám ảnh của chiến tranh. Tưởng rồi các con lớn lên, học hành sống cuộc đời bình thường như bao người khác. Vậy mà con lại chọn cho mình một con đường không bình yên ." Làm sao nói cho hết nỗi lòng của Bố Má bây giờ.
Những ngày đầu xa con, đêm nào Má cũng mơ thấy con. Con ngồi, đứng, nằm chỗ nầy. Mới hôm qua, mới hôm kia, mới tuần trước, tháng trước… Ngày của ký ức lùi dần mà ngày mang nỗi nhớ như tảng đá đè tê tái da thịt. Chỗ nào trong căn nhà ghi dấu từng bư ớc chân con cũng làm Má khóc. Con đâu biết lòng cha mẹ đau đớn như thế nào khi con xa khỏi tầm tay, và chọn bước vào đời đối diện v ới đầy dẫy những hiểm nguy. Chọn súng đạn thay vì sách vở, mỗi chặng đường là bẫy bom, là cái chết không biết sẽ đến lúc nào.
Con, năm vào lính chỉ mới 18 tuổi.
Rồi cũng qua ba tháng quân trường. Cả nhà cùng đi North Carolina đón con về. Ba tháng tập luyện, con gầy rọp, má hóp sâu. Con mất hơn 30 lbs đến nỗi con đứng gần mà Má không thể tin được, chú lính còm nhom bơi trong bộ đồ Marine kia là con trai của Má. Trong bộ đại lễ hôm ấy, con nói năng từ tốn, gần như nghiêm trang. Con đã thực sự là người lính.
Ôi, cậu lính con của Má.
Về từ trại Huấn luyện tháng Tám thì vài ngày sau đó, Katrina tới. Rạng sáng ngày 29 tháng Tám, cả nhà mình chạy bão. Khác những lần chạy bão trước, cảnh sát đóng đường không cho xe vào thành phố. Ban đêm , hai bên đườngđèn đuốc sáng trưng được thắp bởi những cột đuốc như pháo hoa cho ng ày hội lớn. Cảnh sát đóng bớt đường 10 qua Houston, dồn tất cả xe cộ theo đường 12. Hàng hàng xe nối đuôi nhau. Xe của con chạy theo xe Bố. Xe nhích dần từng chút, từng chút một nên mãi đến sớm hôm sau, chúng ta mới qua khỏi địa phận Louisiana. Từng hàng xe chạy bão nối nhau vượt qua những con đường mát rượi bóng cây, lên đồi thoai thoải, xuôi xuống xa lộ đẹp đẽ thẳng tắp về hướng Teneesee. Lần chạy bão đó,chúng ta đã đi một chặng hành trình dài từ Teneesse qua Akansas, ngược về Dallas, xuôi Houston Lần đó, không ai trong chúng ta nghĩ rằng, căn nhà mình vừa rời khỏi vài ngày sau đã chìm trong biển nước. Tin tức từ NO. lần nào con cũng hân hoan. "Nhà mình không sao đâu Má. Bão sắp qua rồi." Cũng từ khách sạn ở Tennesse, lần đầu tiên cả nhà cùng bàng hoàng khi nhìn lên TV, New Orleans chìm ngập trong biển nước mênh mông.và hàng hàng nóc nhà trôi bồng bềnh trên
nước. Còn nhà mình thì sao? Nhà mình có sao không? Không một tin tức gì từ Slidell . Báo chí không hề đưa tin Slidell bị ngập lụt. Chỉ một chút chớp nhoáng, người phóng viên quay cảnh cây xăng gần nhà, cột điện ngã sập và mưa gió, cây cối run bần bật Lúc đó, ai cũng hy vọng Slidell vẫn còn có một chỗ để về...
Chúng ta. Cũng còn có một chỗ để về nhưng không còn nơi trú ngụ.
Hàng tháng trời, đồ đạc kéo ra từ đống bùn sình rác rưởi. Nhà nhà, rác chất thành đống dồn cục, không khí bốc mùi nằng nặng của xác thú vật, xác cá chết trương bụng trắng hếu.Mùi gỗ ẩm mục ngai ngái, và từ thức ăn hôi thối dồn lũy bao ngày. Nhà không điện, không gas. Không máy giặt, máy sấy. Ngồi từ trong nhà có thể nhìn xuyên qua ngoài đường giữa tường nhà toang hoác. Tháng Chín. Con đi học xa nên không ai chở em Nấm đi học. Mỗi ngày, em đứng lọt thỏm bên đống rác lềnh khênh đế đón xe bus đến trường.
Đó là những tháng năm Má tưởng mình sẽ không gượng dậy nổi.
Có bão tố hoạn nạn thiên tai mới thấy, chính phủ Mỹ đã lo lắng cho người dân tận tâm như thế nào. Trailer của Fema mỗi ngày lần luợt kéo đến từng nhà, đặt trên hallway.Họ chuẩn bị điện nước, gas cho một gia đình có chỗ nương náu trong khi chờ sửa lại nhà cửa. Từng đơn vị các binh chủng bộ binh, thuỷ quân lục chiến đổ về thành phố, giữ an ninh và phát thực phẩm, nước uống cho dân. Những người thiện nguyện từ các tiểu bang khác, từ Hội Chữ Thập đỏ dựng lều, nấu ăn , khám bịnh miễn phí cho các gia đình nạn nhân bão lụt.
Lòng nhân ái của họ vượt qua mọi chủng tộc, mầu da, ngôn ngữ. Và khi hoạn nạn mới thấy, tấm lòng của người Mỹ bao dung, rộng lượng biết là dường nào.
Chúng ta đón Noel đầu tiên, sau bão , trong trailer của Fema. Hôm đó, con và anh từ Baton Rouge về. Con bày ra bàn, đây là quà của Bố, cái nầy của Má... Trên bàn bếp, con thắp những ngọn nến, ánh sáng dịu dàng tỏa lan qua nhánh thông nhỏ, thoáng trong không gian nhè nhe, tiếng nhạc Giáng sinh làm căn phòng thật ủi an, ấm áp. Con bày trò chơi, chụp hình cả nhà. Hình nào con cũng nhăn mặt làm trò ngó đến tức cười. Những tấm hình đó, thỉnh thoảng Má vẫn mở ra coi lại. Để rưng rưng nhớ những ngày tháng còn thấy con nói cười gần gũi… Hình ảnh đó đối với Má quí báu biết là ngần nào. Bởi, Má đã mất hết mọi thứ, từ những hình ảnh, những kỷ niệm của các con lúc mới ra đời, hình đám cưới của Bố Má mà Má đã nhặt nhạnh, gìn giữ hàng bao nhiêu năm trời.
Mọi thứ, chúng ta làm lại từ đầu.
Không dễ. Nhưng ít ra, chúng ta còn có một nơi chốn để về. Một nơi trú ngụ.
Tháng Tám (cũng tháng tám ) con rời nhà vào trại. Từ Camp Lejeune, North Carolina đến Camp Pendletton, California, từ đó, con cùng đơn vị qua Iraq.
Cũng như ngày đầu con xa nhà, Má phải tập để chịu đựng dần nỗi nhớ, nỗi lo lắng mà mỗi đêm khi chợp mắt, má nghĩ, đó chỉ là giấc mơ. Má sẽ nghe, lát nữa thôi, tiếng con gọi má, hoặc con sẽ mở TV, tiếng cười ha ha của con chộn rộn cả phòng khách. Má dễ dàng khóc trong bất kỳ gợi nhớ một hình ảnh, một vết tích nào. Má rất muốn mở TV, coi tin tức hàng ngày về Iraq, muốn mường tượng nơi chốn con ở, mà lại kh ông có can đảm để nghe, để nhìn… Có bao nhiêu người làm Mẹ như Má phải chịu đựng cảm giác nầy, mang trong lòng sự mâu thuẫn dằng xé khi con họ rơi vào một chiến trường đầy chết chóc như vậy?
Con viết tiếng Việt không rành. Con viết "Hom nay con ban làm day tho. Có phải chữ day tho viết vậy không Má" Má ngẫm nghĩ , đoán hoài không biết con muốn viết chữ gì. Dãy thờ ? Dạy thợ ? Đầy thơ ? Không, con bận rộn như vậy chắc không phải là thơ thẩn rồi. Mãi, Má mới biết con muốn viết chữ giấy tờ. Trời, con ơi là con. Tiếng Việt Nam mình nhiều nghĩa lắm. Con viết thư không dấu mà lại sai chính tả,thiệt là tội cho ngôn ngữ của mình biết bao nhiêu, rồi thế hệ sau , sau nữa, ngươì ta chỉ nói, “ I love you” họ sẽ không còn nhớ và nói với nhau âm điệu êm ái “anh yêu em, hay em yêu anh “ nữa. Con ra đời, sống trong môi trường xử dụng tiếng Mỹ là ngôn ngữ chính, nên chính con cũng dần dà quên tiếng nói nuớc Việt nam rồi. Mà lỗi cũng nhiều phần bởi Má không dạy con đến nơi đến chốn.
Từ Iraq, con email hỏi Má "Má ơi, Bạn con hỏi New Orleans có món gì ngon?" Ngộ chưa. Chắc tụi con bên đó ăn toàn đồ hộp Ready to eat nên thèm thức ăn nấu nóng, vừa ăn vừa hít hà phải không? Ở nhà con hay vào bếp nhưng mới đi đó đã quên rồi. Món con thích nhất là barbercue shrimp nấu với bơ, lá thơm, chanh, bột đỏ. Đây là món ăn gần như đặc biệt của NO, nhiều nơi họ cũng có nấu nhưng chắc không theo đúng công thức nên mùi vị không đậm đà bằng. Nhưng nếu nói là đặc biệt, rất NO thì phải kể đến món Creole sauce ăn với cơm trắng và tôm, món Crawfish etouffé có mầu vàng đỏ nhạt, ăn với crawfish pie. Còn món cá sấu thì… ngon tuyệt. Thịt cá sấu trắng, dai nên khi chiên phải ướp gia vị cho thịt thấm mềm, nhúng bột chiên trong deep fry , đố ai biết là mình vừa nhai phải thịt cá sấu. Miếng thịt thơm, ngọt mềm hơn cả thịt gà.
Khi nào con về Má sẽ làm món Barbercue shrimpcho con ăn. Má sẽ bỏ thật nhiều tôm, nhiều chanh, ớt để con khỏi than phiền "Sao mà không cay, chua chút nào!"
Tuần trước Má dọn phòng của con. Dù là mãi đến mùa Hè sang năm con mới về nhà nhưng Bố đã lo mua gỗ, ván chuẩn bị đóng kệ sách. Bố vẫn loay hoay không biết đóng kiểu nào cho đẹp, cho hợp với phòng ngủ của con. Bố dự định vẽ trên hết một mặt bức tường còn lại lá cờ Việt Nam như ý thích của con, nhưng có lẽ qua Noel mới thực hiện được. Cũng còn lâu con mới về mà. Má thay cho con tấm trải giường mới, trên bàn ngủ chưng bình hoa lan màu trắng ngà điểm mấy cọng cỏ xanh, ngó dễ thương lắm. Má nghĩ là con rất thích. Em Nấm có nhiệm vụ quét bụi hai lần trong tuần. Nó vẫn thắc mắc sao anh Khôi đi lâu mới về mà nó phải làm công việc đó sớm quá vậy.
Căn phòng của con, chỗ con ngồi chơi game, đọc sách, căn phòng ngó ra đường tràn ngập ánh sáng, vẫn luôn chuẩn bị đón con về.
Hôm nay, tình cờ Má thấy một tấm ảnh của người lính Marines trên tờ báo Time. Trên cánh tay đầy hình xâm. Một đôi giày lính, một khẩu súng và hai tấm thẻ bài. Hình xâm nhìn dữ dội và cũng khá nghệ thuật. Ở đó, có hàng chữ "Tattoo Bans. Body art is big. But the Marines and some police are cracking down on it."
Tattoo nầy làm Má nhớ thằng bạn thân Marine của con. Kỳ nó đến nhà mình, cánh tay cũng xăm một huy hiệu Thủy Quân Lục Chiến to thật to, (sợ thì thôi ). Thấy Má nhìn, con cười cười "Má à, mai mốt con cũng…" Má đẩy con ra, chắc vậy, hình như lúc đó Má giận con. "Con à, đâu cứ phải xăm đầy tay chân như vậy mới chứng tỏ mình là người can đảm. You're the man. Con và bạn con hay nói câu này. Sự can đảm ở ngay chính trong bản thân của con đó. Với lại, người Việt Nam mình thường đánh giá không tốt về những người hay xăm hình nầy nọ," "Má à. Con nói giỡn thôi mà. Má tưởng thiệt hả!"
Cũng hôm dọn phòng cho con, Má tìm thấy trong tủ quần áo, nguyên một tập thơ bằng tiếng Anh của con. Một số bài thơ con viết tay. Má biết con thích làm thơ nhưng không nghĩ rằng con trai của Má làm thơ nhiều đến như vậy. Ôi, con trai của Má. Không biết giống ai mà tâm hồn dạt dào thơ quá sức. Giá như con hiểu và viết được tiếng Việt nhiều, trong những vần thơ kia, Má sẽ thích thú hơn. Má thích bài thơ Sunrise hơn bài My Lovely Rose. Hình như bài thơ này con viết hôm cùng gia đình đi biển ở Destin. Hôm đó, con đón bình minh trên biển, trên bờ cát xô đẩy đùa theo sóng nước… Đó là tấm ảnh rất đẹp với hình ảnh con đứng lẻ loi, cô độc dưới bầu trời mây xanh thẳm, và những ngọn sóng đội đầu chồm trắng xóa.
Má ngồi bất động trong phòng con, rất lâu, tư ởng tư ợng hình ảnh con vào ngày hôm ấy.Những bước chân con chạy in sâu trên bãi biển, và con đuổi theo những con sóng cuốn dấu chân con xa bờ...
Sunrise
I left footprints on the warm sands
I can hear the sound ot the waves, crashed angrily against the shore.
As if wanting to pull me into their heartless trap
The unsettling wind rushed to envelope me in its cold touch
As I hudled and leaned against a piece of rock along the beach.
There I see now. Rising slowly above the horizon
It skillfully painted its magic streaks of colors across the sky.
The magnificence of its presence, gave one such a feeling
That's so intangible by thoughts, and untouchable by words
I stood up and walked humbly down the beach
And erased by the wawes were my footprints on the beach.
Con ơi, bên đó con có thường theo dõi tin tức không? Cali vừa bị một trận cháy rừng kinh khủng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Hàng triệu người phải di tản khỏi thành phố, hàng nghìn nhà bị cháy rụi và theo tin tức, có đến hơn ngàn người chết. Cảnh tạm trú cũng giống như kỳ mình chạy bão Katrina, nhưng ở đây, họ tổ chức tập trung qui mô hơn. Họ ở trong những chiếc lều tạm và thức ăn thì được Chính Phủ cung cấp kịp thời. Họ mất hết mọi thứ y hệt như chúng ta. Họ phải làm lại từ đầu trên đống tro oan khiên đó. Tội nghiệp cho họ. Tội nghiệp cho chính chúng ta. Nhưng rồi họ cũng phải đối mặt để đứng lên vượt qua như chúng ta từ hai năm trước. Trong thiên tai, dù ở bất cứ tiểu bang nào, chính phủ Mỹ cũng lo lắng tận tình cho người dân . Bàn tay và tấm lòng của nước Mỹ còn giang rộng ngay cả những quốc gia nhỏ bé xa xôi nhất, khi họ cần sự giúp đỡ. Má nghĩ, không nước trên trái đất nầy có tấm lòng quảng đại như vậy.
Vậy mà khi Cali đang cuống cuồng lo cháy rừng, một số những người lính cứu hỏa chết cháy khi đang thi hành nhiệm vụ thì New Orleans lại tổ chức Voodoo* Festival. Những ông đồng bà bóng ăn mặc quái dị, mặt vẽ rằn ri như thổ dân uống rượu ca hát nhảy múa trên đường. Thành phố nầy, dù đã hơn ba trăm năm thành lập, vẫn còn nặng nề thế giới ma thuật huyền bí. Họ mê tín đến nỗi, phải cầu ông bà thần linh cho họ lá bùa yêu, làm hình nhân đâm kim xuyên tim để trả thù tình địch, vẽ ngoằn nghoèo vài ba chữ trên tờ đô la bỏ trong bóp tiền cầu may mắn. Nhưng, một số trong đám phù thủy đó, là những người lừa bịp. Ở Việt Nam mình cũng có bùa phép, nhưng chỉ ở một số ít vùng trên cao nguyên hoặc những vùng quê, nơi người dân còn nặng về mê tín chứ không như ở đây. Bùa chú mà cũng có festival. Hết biết. Nó là một trong rất nhiều festival (ngày hội) của NO. Gay festival. French quarter festival, Jazz festival.v.v. Chưa kể ngày lễ hội Mardi Gras còn quái dị hơn nữa. Nhưng tệ nhất là Swinger festival, ngày hội của những cặp vợ chồng hoán đổi cho nhau -vợ hoặc chồng -trong một số ngày nào đó- cuối tuần - hoặc một tuần lễ cho dài ngày hơn. Xong. Ai về nhà nấy, còn sau đó, họ có sống già với nhau hay không thì không ai biết. Họ rất dễ phân biệt với khách du lịch bình thường, với chiếc vòng dẹp màu sô cô la nhạt trên tay.
Những lễ hội đó , hình như không thích hợp với người Việt Nam nên chưa lần nào chúng ta tham dự, dù đã sống ở đây gần hai mươi năm.
Con không nói về tình hình, công việc của con bên đó. Email gửi về thường là những lời trấn an Bố Má. Con nói. Công việc con bận rộn lắm. Một đêm chỉ ngủ ba, bốn tiếng. Không ngày nghỉ. Mà dù con không nói, Má cũng biết. Những tấm ảnh con gửi về đã nói lên điều đó. Có những bức ảnh con chụp quanh chỗ đóng quân. Trại lính đóng dọc trên bờ sông Tigris , với những đập nước lớn chảy xiết. Chiến tranh ở đâu cũng giống nhau. Không gian quạnh quẽ, khô khốc với những đồn lũy, bao cát trấn quanh hầm cá nhân. Má cảm nhận được không gian đó, vì dù trải qua bao nhiêu năm, những lần tìm thăm Bố ở tiền đồn, chiến tranh luôn hiện hữu, gần đến nỗi mình có thể nghe được hơi thở của nó. Dù không thể sờ nắm được nhưng nó thật sự có mặt ở mỗi bước đi, mỗi chỗ đứng, mỗi khoảng khắc của thời gian. Bố nói con phải đội nón sắt, dù ở trong trại lính. Kẻ thù có thể pháo kích bất cứ lúc nào và nón sắt có thể giúp bảo vệ được tính mạng cho con. Con phải nhớ rõ điều nầy.
Má đi ngược lại con đường cũ. Đường vắng. Nắng đã bò qua khỏi ngọn cây, đung đưa theo gió rung rinh tàng lá sớm. Hôm nay là thứ tư. Tuần sau con sẽ nhận được quà của Má. Tưởng tượng, bàn tay con hối hả mở thùng giấy. "Ô, nhiều thứ quá!" Và rồi, con sẽ ăn cho bằng hết trong một thời gian kỷ lục số kẹo bánh Má gửi cho con. Con có thể ăn suốt ngày, kể cả mang vào giường nhâm nhi hương vị khô bò cay xé lưỡi mà vẫn chưa chịu là cay.
Và rồi, như bao lần, Bố lại lui cui ướp thịt, bắc vĩ nướng, xếp thẳng thớm từng lát thịt bò. Mấy ngày liền sấy không biết bao nhiêu là vỉ khô bò cho con .
Và cũng như sáng hôm nay, Má lại ra bưu điện xếp hàng, đợi đến phiên, khiêng cái thùng giấy đựng đủ thứ lỉnh kỉnh… Ông bưu điện già sẽ nhìn Má bằng cặp mắt ái ngại khi mắt lướt vào địa chỉ .
UNIT 73142
FPO AE 09509-3142
Má phải làm quen với nó hàng bao tháng trời nữa, cái địa chỉ ở cái xứ sở xa lạ nầy. Má hy vọng, thời gian qua nhanh hơn, Má sẽ được nghe tiếng con cười trong ngôi nhà quen thuộc của mình, con sẽ dịch cho Má nghe, những bài thơ con viết từ Iraq . Không biết buổi sớm khi nhìn bình minh ló dần phía chân trời, mầu sắc có rực rỡ và mây có theo gió về bàng bạc từng phiến mây hồng? Ước gì Má có thể đọc những bài thơ con viết về cảnh bình minh hay hoàng hôn nơi đó. Chắc hẳn rằng trong thơ bây giờ là nỗi nhớ nhà nôn nao thoảng trong đì đùng tiếng súng, hệt như Bố ngày xưa.
Chỉ đến khi con trở về nhà từ chiến trường Iraq , Bố Má mới thật sự là những kẻ hạnh phúc.
( Chú thích)
1-Voodoo: black magic ( ma thuật)
Sunrise ( Rạng đông)
Tôi bỏ lại bước chân trên bãi cát
Tôi có thể nghe, quanh tôi.
Âm thanh cuồng nộ của sóng đập vào bờ đá
Những âm thanh giận dữ
Xô đẩy tôi trong chiếc bẫy vô hồn
Đứng một mình co ro
dựa vào ghềnh đá
Đâu đây, tiếng gió xôn xao
Thổi choàng quanh tôi
Mênh mông hơi nước biếc.
Ở đó. Trước mắt tôi.
Mặt trời từ từ vươn lên đường chân trời.
Thật tuyệt vời.
Muôn nghìn mầu sắc chao lượn trên cao
Rực rỡ
Tôi chỉ có thể cảm nhận
Sự tuyệt diệu vô cùng của tạo hoá
No comments:
Post a Comment