LTG:
Bài viết này của tôi sao buồn quá, nhưng biết làm sao được, bởi vì đó
là sự thật, cho tôi viết một lần này thôi, như nhớ về một kỷ niệm, một
kỷ niệm rưng rưng.
Anh ạ! tháng tư mềm nắng lụa,
Hoa táo hoa lê nở trắng vườn,
Quê nhà thăm thẳm sau trùng núi,
Em mở lòng xem lại vết thương,
Anh ạ! tháng tư sương mỏng lắm,
Sao em nhìn mãi chẳng thấy quê,
Hay sương thành lệ tra vào mắt,
Mờ khuất trong em mọi nẻo về.
Sau
khi đọc bài thơ này của Nhà thơ Trần Mộng Tú, trong lòng tôi chợt cảm
thấy bàng hoàng thảng thốt. Đã 37 tháng tư trôi qua, bao nhiêu nước đã
chảy qua cầu, vết thương trong lòng tôi vẫn còn âm ỉ, tôi nghĩ nó sẽ
chẳng bao giờ lành cho tới ngày tôi nhắm mắt. Bốn mươi mốt năm về
trước, đám sĩ quan trẻ chúng tôi chỉ mới ngoài 20, đến nay đầu đã lớm
chớm bạc, “cùng một lứa bên trời lận đận”, sau cơn Đại hồng thủy tháng
tư năm 75, lũ chúng tôi tản mác khắp bốn phương trời: “Thằng thì đang
còng lưng trong các Shop may tại Santa Ana Cali, thằng đang làm bồi bàn ở
Paris, thằng đang chăn cừu ở New Zealand, thằng thì đang cắt cỏ ở
Texas, và cũng có thằng đang đạp xích lô ở Sài gòn”(trích). Mỗi năm đến
ngày 30-4, tất cả chúng tôi đều bàng hoàng ngơ ngác như kẻ mất hồn.
Không còn ai trách cứ chúng tôi hết, chỉ có chúng tôi tự trách mình,
chúng tôi đã làm gì cho Tổ quốc?.
Trước
năm 75, tôi là người lính trong hàng ngũ Quân đội Miền Nam, với cấp bậc
thấp nhất là Thiếu Úy, với chức vụ nhỏ nhất là Trung đội trưởng, ngoài
số lương đủ sống mà tôi lãnh hàng tháng, tôi không hề nhận được bất cứ
bổng lộc nào từ phía “triều đình”. Tôi chỉ là một người lính vô danh tầm
thường như trăm ngàn người lính khác, ngoài cuộc sống cực kỳ gian khổ
và hiểm nguy, chúng tôi không có gì hết, kể cả hạnh phúc riêng tư của
chính mình. Cho nên, tôi không hề có một mơ tưởng nào về một hào quang
của ngày tháng cũ, và tôi cũng không muốn tiếp tục một hành trình “Việt
Nam Cộng Hòa kéo dài”. Tôi viết như để thắp hương tưởng niệm, những đồng
đội của tôi đã nằm xuống cho tôi được sống, rộng lớn hơn hàng trăm ngàn
người đã chết để chúng ta có cuộc sống ngày hôm nay tại hải ngoại này.
Mùa
Hè năm 1972, người Miền Nam thời ấy gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, mượn cái tên
từ Tập bút ký chiến trường rất nổi tiếng của Phan Nhật Nam . Mùa Hè đỏ
lửa năm 72 là năm Quân đội của hai miền Nam-Bắc dốc sức đánh một trận
chiến sinh tử, bên nào kiệt lực bên đó sẽ bại vong. Niên khóa năm 71-72,
tôi là Sinh viên Ban Sử Địa thuộc Đại Học Văn Khoa Saigon, năm đó tôi
đi học trong một tâm trạng bồn chồn không sao tả được, và tôi cũng không
còn tâm trí đâu để mà học hành, tin tức chiến sự từ các mặt trận gởi về
dồn dập, lúc đó bạn bè tôi lớp chết lớp bị thương, lũ lượt kéo nhau về.
Sau này ngẫm nghĩ lại,tôi thấy miền Nam lúc đó không còn sinh khí nữa,
những bài hát phản chiến của Trịnh Công Sơn được hỗ trợ bằng tiếng hát
ma quái Khánh Ly, đã làm băng hoại chán chường cả một thế hệ thanh niên
thời đó. Ngoài ra, còn khá nhiều những bài ca những tiếng hát đã đâm
thấu lòng người “anh trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về bại tướng cụt
chân, anh trở về hòm gỗ cài hoa, trên trực thăng sơn màu tang trắng…”
Tại sao trong một đất nước đang có chiến tranh mà có những điều kỳ lạ
này xuất hiện. Điềm Trời báo trước chăng?.
Chính
quyền Miền Nam sau đó ra lịnh tổng động viên, tất cả các nam sinh viên
đều phải nhập ngũ, trừ những người xuất sắc. Lúc đó những gia đình có
tiền của, họ chạy đôn chạy đáo lo cho con cái của họ chui vào chỗ này
chui vào chỗ nọ, miễn sao khỏi ra mặt trận. Đối với họ,chuyện ngoài mặt
trận là chuyện của ai khác, không liên quan gì đến gia đình họ Hằng ngày
họ xem TV thấy cảnh khói lửa ngập trời, người chết hàng hàng lớp lớp,
họ coi đó là chuyện ở đâu đâu, chẳng ăn nhập gì tới họ. Còn tôi thì
ngược lại, tôi muốn ra mặt trận càng sớm càng tốt, hình như định mạng đã
an bài cho tôi. Trong bài “Đại bác ru đêm” của Trinh Công Sơn có một
câu rất “độc”, “đại bác đêm đêm dội về Thành phố, người phu quét đường
dừng chổi đứng nghe”, tôi chính là người phu quét đường đó. Tiếng đại
bác đã làm lòng dạ tôi nôn nao, tôi muốn ra mặt trận để chia lửa với
những người bạn cùng thời với tôi, để chịu chung khổ nạn với đồng bào
tôi, trong những ngày tháng điêu linh nhất của đất nước. Tiếng đại bác
đã ầm ĩ trong lòng tôi, kéo dài mãi từ ngày đó cho tới tận bây giờ.
Thế
rồi cũng đến phiên tôi nhập ngũ, giã từ Trường Văn Khoa với Đại Giảng
Đường 2 bát ngát, giã từ những bài giảng rất lôi cuốn của Linh Mục Thanh
Lãng, của Giáo Sư Nguyễn Thế Anh, thôi nhé giã từ hết những ước vọng
của thời mới lớn. Tôi trình diện Khóa 4/72 tại Trường Bộ Binh Thủ Đức,
năm đó quân trường Thủ Đức chứa không xuể các thanh niên nhập ngũ nên đã
đưa một số ra thụ huấn ngoài Trường Đồng Đế Nha Trang, toàn bộ tinh hoa
của Miền Nam được tập trung vào hai quân trường này, Miền Nam đã vét
cạn tài nguyên nhân lực để đưa vào cuộc chiến.
Vào
quân trường, Khóa 4/72 toàn là các sinh viên các trường ĐH tụ họp về
đây, chúng tôi làng xoàng tuổi nhau nên đùa vui như Tết, tuổi trẻ mà,
lúc nào cũng vui cũng phơi phới yêu đời, chuyện ngày mai đã có Trời
tính. Thời gian 6 tháng quân trường gian khổ sao kể xiết, bởi vì sự huấn
luyện nhằm biến đổi một con người dân sự thành một người lính thực thụ
là điều không đơn giản. Không phải chỉ có các kiến thức về quân sự, mà
còn tạo dựng một cơ thể gang thép, rèn luyện gian khổ bất kể ngày đêm,
bất kể nắng nóng nung người hay mưa dầm bão táp. Trong 5 tuần lễ đầu
tiên vào trường, gọi là giai đoạn “huấn nhục”, đây là giai đoạn kinh hãi
nhất trong đời lính mới của chúng tôi. Hằng ngày chúng tôi tuân phục sự
chỉ huy điều động của các huynh trưởng khóa đàn anh, khi ra lịnh họ hét
lên nghe kinh hồn bạt vía, họ nghĩ ra đủ mọi hình phạt để phạt chúng
tôi bò lê bò càng, trong giai đoạn này chỉ có chạy không được đi… các
huynh trưởng quần chúng tôi từ sáng sớm tới chiều tối, buông ra là chúng
tôi ngất lịm, ngủ vùi không còn biết gì nữa hết. Sau 5 tuần lễ huấn
nhục, ai vượt qua được, sẽ tham dự lễ gắn Alpha, để chính thức trở thành
Sinh Viên Sĩ Quan. Ngày quì xuống Vũ Đình Trường để nhận cái lon Alpha
vào vai áo, chúng tôi cảm thấy rất tự hào, vì đã lập một kỳ công là tự
chiến thắng chính mình để trở thành một người lính, không còn hèn yếu
bạc nhược như xưa nữa.
Khi
chúng tôi quá quen thuộc với các bãi tập như: bãi Cây Đa, đồi 30, bãi
Nhà Xập, cầu Bến Nọc… cũng là lúc sắp đến ngày ra trường. Gần tới cuối
khóa, chúng tôi còn phải vượt qua những bài học cam go như bài đại đội
vượt sông, đại đội di hành dã trại… Cuối cùng điều mà chúng tôi mong đợi
từ lâu, đó là ngày làm lễ ra trường, tất cả chúng tôi trong quân phục
Đại Lễ, xếp hàng ngay ngắn tại Vũ Đình Trường, rồi một tiếng thét lồng
lộng của Sinh viên Sĩ quan chỉ huy buổi Lễ: “Quì xuống các SVSQ”, sau
khi đọc các lời tuyên thệ và được gắn lon Chuẩn Úy, tiếng thét chỉ huy
lại cất lên một lần nũa: “Đứng lên các Tân Sĩ Quan”. Trong số chúng tôi
có người muốn ứa nước mắt, cái lon mới được gắn lên vai, đã đánh đổi
bằng biết bao mồ hôi gian khổ sao kể xiết.
Ngày
hôm sau chúng tôi tụ họp lên hội trường để chọn đơn vị, tới phiên tôi
lên chọn có một điều làm tôi nhớ mãi. Đứng trước tấm bảng phân chia về
các đơn vị, tôi định chọn về Sư Đoàn 7 cho gần Sài gòn, bỗng cái Ông
Thượng sĩ đứng phụ trách tấm bảng bèn đưa ra lời bàn: “Chuẩn Úy nên chọn
về Sư Đoàn 9 vì vùng trách nhiệm nhẹ hơn, SĐ 7 trách nhiệm vùng Cái Bè
Cai Lậy rất nặng nề”. Oái oăm thay ngày hành quân đầu tiên của tôi là
vùng Cái Bè, bởi lẽ đơn vị tôi tăng cường cho SĐ 7.
Tôi
trình diện Bộ Tư Lịnh SĐ 9 tại Vĩnh Long. SĐ này có 3 Trung Đoàn: 14,15
và 16. Tôi được đưa về Trung đoàn 14. Tôi lại mang vác ba lô về trung
đoàn 14 đang hành quân vùng Cái Bè. Từ Sài gòn qua Ngã ba Trung Lương,
chạy thêm một đoạn xa nữa thì tới Cai Lậy rồi tới Cái Bè, xong quẹo mặt,
chạy tít mù vào sâu bên trong khoảng 20 cây số, tới cuối đường lộ thì
gặp một cái xã mang tên Hậu Mỹ, ngay tại đây chính là cái ruột của Đồng
Tháp Mười, lính tráng hành quân vùng này nghe cái tên Hậu Mỹ là đủ ớn
xương sống. Không hiểu sao, ở giữa ĐTM lại có một nơi dân cư sinh sống
bằng nghề nông rất trù phú. Đám Tân SQ chúng tôi sau khi trình diện
Trung Đoàn trưởng thì được giữ lại Bộ Chỉ huy vài hôm để tập làm quen
với cách làm việc của nơi này. Sau đó Ban Quân Số phân chia về các nơi.
Vị Sĩ quan Quân số hỏi có Chuẩn Úy nào tình nguyện về Đại Đội Trinh Sát
hay không? Tôi đáp nhận. Nói theo kiểu Cao Xuân Huy trong “Tháng Ba Gẫy
Súng” tôi chọn về đơn vị tác chiến thứ thiệt này, mà trong lòng không có
một chút oán thù nào về phía bên kia, mà chỉ vì cái máu ngông nghênh
của tuổi trẻ, và kế đó là bị kích thích bởi cảm giác mạnh của chiến
trường.
Một
Trung Đoàn Bộ Binh có 3 Tiểu Đoàn và 1 Đại Đội Trinh Sát, đám chúng tôi
có 12 thằng, được phân chia về các Tiểu Đoàn, chỉ có mình tôi về Trinh
Sát. Sau khi chia tay ở sân cờ xong, chúng tôi ra đi biền biệt, hầu như
không còn gặp nhau nữa. ĐĐ/TS cho người lên dẫn tôi về trình diện Đại
Đội Trưởng, lúc đó đơn vị đóng ở ngoài căn cứ của Trung Đoàn. Trung Úy
Đại đội trưởng có biệt danh là Đại Bàng, dáng người cao to trông rất dữ
dằn, cặp mắt ti hí luôn luôn nhìn chằm chằm tóe lửa, giong nói gầm gừ
trong họng, tất cả đều toát ra một nét uy phong làm khiếp sợ người đối
diện (trong đó có tôi). Tôi đứng nghiêm chào trình diện theo đúng quân
phong quân kỷ: “Chuẩn úy NĐC, số quân 72/150181, trình diện Đại Bàng”.
Ông ta nhướng mắt nhìn tôi, trên gương mặt hình như có nét thất vọng
(mãi về sau này tôi biết điều đó đúng như vậy). Nhìn tôi một hồi, rồi
ông ta phán cho tôi một câu nhớ đời: “Anh về làm Trung đội Phó Viễn
Thám”. Trời đất, tôi nghĩ thầm, cái bằng tốt nghiệp của tôi là Trung đội
trưởng, mà giao cho tôi làm Trung đội phó là sao nhĩ? Lúc đó tôi không
biết rằng làm Trung đội phó là còn may, các Sĩ quan về sau nữa có khi
còn làm Trưởng toán Viễn thám, thiệt là chết dở.
Đai
Đội lúc đó có khoảng trên trăm người, được chia làm 2 Trung đội Trinh
Sát và 1 Trung đội Viễn Thám. Các Sĩ quan Trung đội trưởng ra trường
trước tôi vài khóa mà trông rất ngầu, uống rượu như điên đồng thời nói
năng rất bạt mạng. Còn lính tráng nữa chứ, tôi nhìn họ mà sợ lắm, họ
được tuyển chọn từ các nơi khác về đây, nên trông rất khiếp hồn, phần
lớn họ là gốc nhà nông, chỉ biết đọc biết viết là nhiều. Lạ một điều là
tất cả những người lính này đều đối với tôi rất lễ độ, có lẽ phát xuất
từ kỷ luật quân đội chăng? Sau một thời gian sống gần gũi với họ, tôi
thấy họ là những người rất đáng mến, thật thà chất phác, rất tôn trọng
nghĩa tình, một khi họ quí trọng một cấp chỉ huy nào thì họ sẵn sàng xả
thân, họ hoàn toàn không dễ sợ như tôi nghĩ lúc đầu.
Vài
hôm sau, gặp bữa Đại đội tề tựu đông đủ, Đại Bàng đưa tôi ra giới thiệu
trước ĐĐ, rồi bảo tôi phát biểu. Trời đất ơi ! Tôi run quá, hai đầu gối
cứ run lẩy bẩy, tôi có bao giờ nói chuyện trước một đám đông trông
khiếp hồn như thế này bao giờ đâu, cho nên tôi ngượng nghịu lắm, vừa nói
vừa ngó xuống đất, không dám ngó mặt ai, bẽn lẽn như cô dâu mới về nhà
chồng, bây giờ nghĩ lại tôi không còn nhớ tôi nói cái gì nữa, nhưng tôi
vẫn nhớ tiếng chắc lưỡi bực mình của Đại Bàng đứng sau lưng tôi, nói
được chừng 10 phút thì tôi hụt hơi hết sức, Đại Bàng phải ra lịnh giải
tán đám đông. Ông giận dữ kéo tôi ra chỗ vắng, rồi hất hàm hỏi tôi:
– Chuẩn Úy tốt nghiệp Trường Sĩ quan nào vậy?
Tôi biết ngay là có chuyện không ổn, bởi vì khi ông xếp gọi mình bằng cấp bậc là tai họa đến nơi rồi. Tôi đáp:
– Tôi tốt nghiệp từ Trường Bộ Binh Thủ Đức.
Ông ta bèn xáng cho tôi một câu nhớ đời:
– Vậy mà tôi tưởng Chuẩn Úy tốt nghiệp từ Trường Nữ Quân Nhân chứ !
Tôi
nghe mà choáng váng mặt mày, ông ta đã điểm trúng tử huyệt của tôi, vì
hồi còn là Sinh viên Sĩ quan trong Thủ Đức, chúng tôi coi là điều sỉ
nhục, khi bị cấp trên mắng là Nữ Quân Nhân. Tối hôm đó khi đi ngủ tôi
buồn lắm, hình như tôi bị quăng vào môi trường sống không phù hợp với
mình, một nơi chốn mà tôi chưa từng biết bao giờ, bởi lẽ trước nay tôi
chỉ là anh học trò, bấy lâu chỉ làm bạn với sách vở, với bạn bè với
trường lớp. Bây giờ giữa chốn ba quân này, tôi bỗng nổi bật lên như cái
gì đó không giống ai. Lúc đó, tôi nhớ Ba mẹ tôi ở nhà, và tôi nghiệm ra
một điều rằng, ăn chén cơm của Ba Mẹ tôi sao mà sung sướng quá, bởi lẽ
Ba Mẹ chớ hề sỉ nhục tôi, còn khi ra đời, ăn chén cơm của người đời sao
đầy cay đắng, tôi lặng lẽ ứa nước mắt.
Tôi
về làm Phó cho Chuẩn Úy Vương Hoàng Thắng, khóa 3/72. Anh ta là người
trí thức có bằng Cử nhân CTKD, thấy tôi cà ngơ cà ngáo, anh ta thương
tình kêu đệ tử giúp đỡ cho tôi mọi chuyện. Chiều hôm đó, tôi lại gặp một
chuyện khôi hài dở khóc dở cười, không sao quên được. Chiều đến, lính
tráng kéo ra bờ sông tắm giặt, tôi cũng đi tắm như họ, thay vì nhảy ào
xuống sông bơi lội như mọi người, nhưng tôi lại rất sợ đỉa nên đứng trên
bờ cầm nón sắt múc nước sông mà xối lên người. Tắm một hồi, tôi cảm
giác có cái gì đó là lạ, nhìn quanh thấy mọi người chăm chú nhìn tôi, và
xầm xì bàn tán chuyện gì đó, rồi bỗng nhiên cả đám cười rộ lên, có tên
lính lên tiếng: “Sao Chuẩn Úy không xuống tắm như tụi tôi mà đứng chi
trên bờ, ý trời ơi! Sao da của Chuẩn Úy trắng nõn như da con gái vậy?”.
Tôi ngượng điếng người, máu chạy rần rần trên mặt, muốn chui xuống đất
mà trốn cho đỡ xấu hổ. Vậy mà đã hết đâu, có cái ông Thượng sĩ già đứng
gần, còn đớp cho tôi thêm một nhát: “Ý cha! cái bàn chân Chuẩn Úy sao mà
đẹp quá, bàn chân này có số sung sướng lắm đây!!!” Thiệt là khổ cho cái
thân học trò của tôi, hết làm Nữ Quân Nhân, bây giờ lại giống con gái,
thiệt là chán.
Miền
Tây là vùng đất nổi danh sình lầy. Hậu Mỹ là nơi đã tiếp đón tôi trong
những ngày đầu về đơn vị, cũng là nơi sình lầy ghê khiếp. Dân trong xã
người ta cất nhà dọc kinh Tổng Đốc Lộc, ra khỏi mí vườn là ruộng lúa sạ
ngút ngàn. Sáng sớm, lính tráng lo cơm nước xong xuôi là bắt đầu nai nịt
lên đường, súng đạn ba lô trên vai, để tham dự cuộc hành quân thường
ngày, bước ra khỏi mí vườn là bắt đầu lội ruộng, trước tiên nước đến
ngang đấu gối, rồi khi qua những trãng sâu, nước cao tới ngực, và cứ thế
quần áo ướt sũng từ sáng tới chiều, cho nên quần áo tụi tôi nhuộm phèn
vàng chạch, trong rất kỳ quái.
Khi
ở quân trường tôi tưởng nỗi gian khổ của người lính là cao nhất, sau
khi ra đơn vị tôi mới thấy được rằng, nỗi khổ quân trường chỉ là khúc
dạo đầu, không thấm thía gì so với ngoài thực tế. Vùng Hậu Mỹ là vùng
lúa sạ nên rất ít bờ ruộng, khi đặt chân xuống ruộng là phải đi một mạch
tới bờ bên kia cách xa vài cây số, không ngừng giữa đường được. Đất
ruộng người dân họ cày xới lên từng tảng to nhỏ như trái dừa, ngổn ngang
lỗ chỗ, và nước lấp xấp. Tôi vừa đi vừa lựa thế để đặt chân xuống, sình
lầy bám chặt nên rút bàn chân lên thật khó nhọc, mặt trời rọi ánh nắng
gay gắt, mồ hôi tuôn ra đầm đìa, lúc đầu tôi còn lấy tay áo gạt mồ hôi,
sau cứ để mặc, mồ hôi nhỏ lăn tăn lên mặt ruộng. Đó là tôi mang ba lô
rất nhẹ, chỉ có quần áo đồ đạc cá nhân, còn lương thực lều võng đã có đệ
tử mang vác phụ. Tôi ngó qua những người lính đi chung quanh, thấy họ
mang vác rất nhọc nhằn, họ phải oằn lưng mang lều võng, súng đạn, mìn
bẫy, gạo, cá khô, đồ hộp, mắm muối… Người thì đeo trên ba lô cái nồi,
người thì mang cái chảo, họ lặng lẽ bước đi, tôi không hề nghe một lời
than van nào hết, họ cắn răng lại mà cam chịu, có than van cũng không ai
nghe. Khi đi tới bờ kinh ở tít đằng xa, áo tôi ướt sũng mồ hôi, cho đến
nỗi, tôi cởi áo ra vắt, mồ hôi chảy ra ròng ròng. Tôi mệt muốn đứt thở,
bèn nằm vật xuống đất, tôi mặc kệ hết mọi điều, không còn biết trời
trăng gì nữa hết, lúc đó tôi nghĩ có ai bắn cho tôi một phát súng ân
huệ, chắc còn sướng hơn, đời lính sao mà khổ quá!
Theo
Đặc San Cư An Tư Nguy (câu này là châm ngôn của Trường BB Thủ Đức) phát
hành tại San Diego, thì Quân Trường này đã đào tạo 55 ngàn Sĩ quan,
trong số đó có 15 ngàn SQ đã tử trận, và không dưới 10 ngàn người đã trở
thành Phế-binh thương tật. Trung đội trưởng là chức vụ đầu tiên của Sĩ
quan mới ra trường, và là chức vụ duy nhất chỉ huy bằng miệng (các cấp
cao hơn thì chỉ huy qua máy truyền tin). Khi xung phong chiếm mục tiêu,
Trung đội trưởng cũng ôm súng chạy ngang hàng với lính, khi đóng quân
phòng thủ đêm, Trung đội trưởng cũng nằm ngang với lính. Trước mặt Trung
đội trưởng không có bạn nữa mà chỉ có phía bên kia. Cho nên lính dễ
chết thì Trung đội trưởng cũng dễ chết y như vậy, súng đạn vô tình nên
không phân biệt ai với ai, quan với lính đều bình đẳng trước cái chết.
Đó là lý do giải thích tại sao Chuẩn úy mới ra trường chết như rạ là vì
thế. Vậy mà tôi còn làm Trung đội phó, không biết nói sao nữa.
Có
một bữa, tôi lội hành quân với đơn vị, đang bì bõm lội sình, thì tiếng
súng nở rộ lên phía trước, Trung đội tản ra, tôi cùng Chuẩn úy Thắng và
đám đệ tử tấp vào một lùm chuối khá lớn. Tôi đứng đó nhìn trời hiu quạnh
một hồi rồi bỗng thấy làm lạ sao thấy C/U Thắng im lìm không có lịnh
lạc gì cả. Bỗng tay lính Truyền tin nói với C/U Thắng: “Đại Bàng kêu C/U
lên trình diện gấp.” C/U Thắng bỏ đi một đoạn, thì lính Truyền tin lại
bảo tôi: “Đại Bàng muốn gặp C/U Châu”. Tôi cầm ống nghe áp vào tai, thì
nghe Đại Bàng chửi xối xả, giọng Ông lồng lộng một cách giận dữ, té ra
là do C/U Thắng quá sợ nên không dám tấn công, ông hét lên bảo tôi: ”
Nè! C/U Châu, tôi giao Trung đội lại cho ông, ông có dám dẫn quân lên
đánh mục tiêu trước mặt hay không?”.Tôi nghe mà sợ muốn “té đái”, run
lập cà lập cập, rồi trả lời ông xin tuân lịnh. Tôi tháo ba lô quăng lên
bờ ruộng cho nhẹ người, rồi vói tay lấy khẩu súng trường của người lính
bên cạnh, miệng chỉ kịp kêu lớn: “Tất cả theo tôi”. Lúc đó tôi “quíu”
quá, nên không nhớ bài bản chiến thuật nào mà tôi từng học ở quân
trường, tôi xông lên vừa chạy vừa bắn vừa la (không biết la cái gì nữa).
Cả trung đội hoảng hốt sợ tôi bị bắn chết, nên cũng vùng dậy chạy theo
tôi. Phía người anh em bên kia, thấy tôi chạy dẫn đầu rất hung hãn,
tưởng tôi bị điên, bèn lập tức tháo lui, trong lúc vội vã họ còn quăng
lại tặng tôi mấy cây súng nữa chứ. Tôi thanh toán mục tiêu chỉ đâu chừng
10 phút, ai cũng tưởng tôi gan dạ, chứ đâu biết rằng tôi làm thế vì quá
sợ ông xếp của mình. Thiệt là khôi hài. Đại Bàng kéo quân lên ông nhìn
tôi gườm gườm, có lẽ ông chưa thấy một Sĩ quan nào lập chiến công “khùng
điên ba trợn” như tôi. Hết cơn giận, ông trả quyền chỉ huy lại cho C/U
Thắng, tôi trở về vị trí cũ.
Sau
đó tôi được điều qua các Trung Đội khác, phụ trách công việc tạm thời
cho các Trung đội trưởng đi phép hay bị thương… Một điều may mắn cho
tôi, (hay Trời đãi kẻ khù khờ), khi tôi nắm quyền tạm thời đó, những
trận đánh mà tôi tham dự, tôi đều hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách
tốt đẹp. Đại Bàng đã nhìn tôi bằng cặp mắt đỡ ái ngại hơn ngày đầu mới
gặp tôi. Đại Bàng sau đó được thuyên chuyển qua một đơn vị khác và một
Đại Bàng mới đến thay thế. Ông Trung úy mới đến này có dáng dấp thư
sinh, ăn nói nhỏ nhẹ, khiến tôi rất có cảm tình. Trong bữa nhậu bàn giao
chức vụ, Đại Bàng cũ giới thiệu các Sĩ quan trong đơn vị cho ĐB mới
được biết. Sau khi điểm mặt 3 Trung đội trưởng, cuối cùng ông ta chỉ tôi
là một Trung đội phó, rồi đưa ra một nhận xét làm sửng sốt mọi người:
”Đây là một tay Sĩ Quan xuất sắc, một tay chơi tới bến… “Hai người sửng
sốt nhất hôm đó là tôi và ông Đại Bàng mới. Đối với tôi, tôi chỉ cố gắng
làm tròn nhiệm vụ của mình và cũng không hề muốn bươn chải về phía
trước. Đối với ĐB mới, ông ta lấy làm lạ là phải, bởi vì ông cứ ngỡ SQ
xuất sắc nhất phải là mấy ông Trung đội trưởng, sao lại là cái ông Trung
đội phó trông hết sức ngớ ngẩn này. Tôi cũng không ngờ, cái lời nhận
xét đó đã đẩy tôi vào một khúc ngoặt khác, đầy hung hiểm chết người.
Một
thời gian ngắn sau đó, tôi được Đại Bàng mới cất nhắc lên làm Trung Đội
trưởng thực thụ. Tham dự hết trận đánh này đến trận đánh khác, để sống
còn, không còn con đường nào khác, tôi phải “động não” đến cao độ cho
công việc của mình. Càng ngày tôi càng đạt được sự tin cậy cao nơi cấp
Chỉ huy, chính điều đó đã đẩy Trung đội tôi vào nơi Tử địa. Khi Đại đội
tiến quân vào nơi nguy hiểm, Trung đội tôi được lịnh đi đầu, và khi rút
quân từ nơi đó, Tr.đội tôi được lịnh bao chót. Khi tấn công tôi được
giao chỗ khó gặm nhất, và khi phòng thủ Trung đội tôi được nằm ở vị trí
nặng nề nhất. Người ta thường nói: “Nhất Tướng công thành vạn cốt khô”,
tôi không phải là Tướng, chỉ là một Sĩ quan có cấp bậc và chức vụ thấp
nhất, nhưng lính tráng dưới quyền tôi đã chết la liệt, có khi chết nhiều
đến nỗi, tôi chưa kịp nhớ mặt người lính của mình nữa. Bởi sự tin cậy
của Đại Bàng dành cho tôi, mà Trung đội tôi phải gánh chịu những tai
ương này. Ông ta rất quí mến tôi, ông chưa hề quát mắng tôi một tiếng
nặng lời, có món nào ngon ông sai đệ tử đi mời tôi đến cùng ăn với ông,
có Huy chương nào quí giá, ông cũng ưu tiên dành cho tôi. Ông quí tôi
như vậy vì ông biết rằng, nếu ông cứ sử dụng tôi như vậy, trước sau gì
tôi cũng chết. Làm sao tôi sống nổi, khi xua quân đi hết mặt trận này
đến mặt trận khác, mà toàn là những nơi đầu sóng ngọn gió. Vậy mà tôi
sống, mới kỳ.
Khi
về đơn vị này, tôi có được một sự may mắn là đơn vị lưu động khắp các
tỉnh Miền Tây. Khởi đầu của tôi tại Cái Bè -Cai lậy với các địa danh nổi
tiếng như Hậu Mỹ, Mỹ Phước Tây, Bà Bèo, Láng Biển… Từ Cai Lậy đi về
hướng Bắc khoảng 60 cây số là tới Mộc Hóa, từ Tuyên Nhơn kéo qua Tuyên
Bình, có một chỗ tận cùng tên Bình Thạnh Thôn, đây là một trong những
chiến trường ác liệt nhất của đồng bằng Sông Cửu Long. Từ nơi này chúng
tôi ngồi thiết giáp băng ngang qua Đồng Tháp Mười để tới Hồng Ngự, và
chính cái lúc băng ngang này, tôi mới biết rõ về Đồng Tháp Mười, đây là
một vùng đầm lầy kinh sợ nhất, đi suốt 1 ngày với xe thiết giáp, tôi
không thấy một cây cỏ nào mọc nổi ngoại trừ loại cây bàng (một loại cây
họ cỏ dùng dệt chiếu), không có một bóng chim, không có một con cá, nước
phèn màu vàng chạch, tóm lại không có 1 sinh vật nào sống nổi trong
vùng này, đừng nói chi đến con người. Vùng đầm lầy dài ngút mắt đến chân
trời, khung cảnh im lìm đến ghê rợn. Rời Mỹ Tho, chúng tôi băng ngang
Sông Tiền bởi phà Mỹ Thuận, rồi băng ngang Sông Hậu với phà Cần Thơ,
xuôi theo lộ tới Cái Răng – Phụng Hiệp, rồi rẽ vào Phong Điền – Cầu
Nhím, tôi ngạc nhiên trước một vùng đất giàu có tột bực này. Ở đây người
dân sinh sống bằng vườn cây ăn trái, sáng sớm ghe chở trái cây chạy
lềnh trên mặt sông để đến điểm tập trung giao hàng đi các nơi, nhà cửa ở
miệt vườn mà trông rất bề thế. Rồi chúng tôi đến Phong Phú-Ô Môn, tiến
sâu vào bên trong chúng tôi đến Thới Lai – Cờ Đỏ, sự trù phú không sao
kể xiết, có khi chúng tôi ngồi Tắc-ráng đi từ Thới Lai đến Cờ Đỏ, 2 bên
bờ kinh nhà cửa nguy nga tráng lệ, không hề có nhà tranh vách đất nào
cả, nhà nào cũng có xe máy cày đậu trước sân. Tuy nhiên vào sâu hơn nữa,
chúng tôi cũng gặp những vùng hoang vu như Bà Đầm -Thát Lát, dân chúng
tản cư đi hết, nhà cửa hoang phế, trông rất âm u rợn người.
Trong
tất cả những vùng mà tôi đã đi qua, có một vùng đất hết sức lạ lùng, và
là một nơi đối với tôi đầy ắp kỷ niệm, vừa thích thú vừa buồn rầu. Mỗi
khi hồi tưởng về một thời chiến trận, tôi đều nhớ về nơi ấy. Cuộc chiến
đã ngừng 37 năm qua, vậy mà tôi chưa hề một lần nào trở về lại nơi chiến
trường xưa, để thắp một nén hương tưởng mộ những đồng đội của tôi đã
nằm xuống nơi này.
Mùa
Khô năm 74, Đại Đội chúng tôi được trực thăng bốc từ phi trường Cao
Lãnh, đổ xuống một cánh đồng bát ngát nằm cạnh biên giới Campuchia.
Trung đội tôi nhảy líp đầu. Khi xuống tới đất tôi hết sức ngạc nhiên về
vùng đất nơi đây. Cánh đồng khô khốc và phẳng lì, không hề có một bờ
ruộng nào cả (sau này tôi được biết đây là vùng nước nổi, khi nước từ
Biển Hồ tràn về, thì không có bờ ruộng nào chịu đựng nổi, nên người ta
cứ để trống trơn như vậy, ruộng của ai người đó biết). Trên cánh đồng
lại có rất nhiều gò nổi lúp xúp ở khắp nơi. Khi Trung đội tôi rời khỏi
trực thăng, tôi lập tức ra lịnh tiến quân theo thế chân vạc thiệt nhanh
nhằm chiếm 1 gò nổi trước mặt, khi cách gò chừng một trăm thước, tôi cho
tất cả dừng lại dàn hàng ngang yểm trợ, rồi tôi phóng 3 khinh binh vào
lục soát, sau một hồi thấy không có gì, họ khoát tay cho cả Trung đội
tiến vào. Khi vào tới nơi, sau khi bố trí xong, tôi thấy trên gò có thật
nhiều cây xanh che bóng mát, và có vài đìa cá, lính tráng lội ùa xuống
xúm lại tát đìa, khi đìa cạn, cá lộ ra lội đặc lềnh như bánh canh. Một
lát sau cả Đại đội theo trực thăng kéo tới kéo vào gò trú ẩn cũng vừa
đủ.
Đêm
tới, chờ trời tối hẳn, Đại Bàng ra lịnh kéo cả đơn vị ra đồng trống để
đóng quân đêm, vì vị trí ban ngày đã bị lộ. Đêm đó chúng tôi không ngủ
được gì cả, vì lũ chuột đồng ở đâu kéo tới, chúng bò ngang dọc, lùng sục
chỗ đóng quân của chúng tôi, lại còn chui tọt vào mùng gặm nhắm chân
tay của chúng tôi nữa chứ. Tờ mờ sáng hôm sau, có 1 đoàn xe bò đông đảo
khoảng mười mấy chiếc kéo ngang chỗ đóng quân. Lính tráng hỏi họ đi đâu,
họ nói họ kéo nhau đi tát đìa, trời đất, tát đìa mà kéo một đoàn xe bò
như thế này ư! Chiều đến, không biết họ đi đến đâu, mà khi kéo xe về, xe
nào cũng đầy ắp cá, họ chứa lủ khủ trong thùng trong chậu lớn, sau đó
họ kéo ra bờ sông giao cho ghe hàng chờ sẵn, chở cá về Hồng Ngự
.
Hôm
sau chúng tôi kéo vào xóm nhà cất dọc theo bờ rạch, có tên là Rạch Cái
Cái. Khi vào đến nơi tôi lại đứng trố mắt ra nhìn, nhà gì mà kỳ dị như
thế này. Người dân họ cất nhà cao lêu nghêu theo kiểu nhà sàn, tôi biết
ngay là họ phải cất nhà như thế để sống cùng với lũ. Nơi đây đúng là
cùng trời cuối đất, tiếng bình dân gọi là hóc-bà-tó. Đây cũng là vùng
đất tranh chấp giữa hai bên, chiến trận nổ ra liên miên, nên người dân
họ sống rất là tạm bợ. Cả xã có vài ngàn người mà chỉ có vài người biết
đọc biết viết. Họ thông thương với bên ngoài bằng các ghe hàng tạp hóa,
hay ghe hàng bông (rau quả), được chở tới từ Hồng Ngự. Nhà nào cũng có
một lu mắm cá, có nhà còn có lu mắm chuột đồng, đó là thức ăn phòng hờ
cho mùa nước nổi. Ghé vào nhà chơi, chủ nhà rất hiếu khách và xởi lởi,
bưng ngay ra một chai rượi đế, rồi hối người nhà xé mắm sống trộn giấm
tỏi ớt đường, bưng ra mời chúng tôi ăn với khoai lang hay bắp luộc.
Lúc
đầu tôi thấy sợ lắm không dám ăn, sau vì nhiều người ép quá nên tôi
cũng nếm được. Còn mắm chuột đồng thì cho tôi xá, nhìn thấy đã hãi nói
chi tới ăn. Đám lính chúng tôi đang lội sình mệt nghỉ, được đưa về một
nơi khô ráo, lại đầy ắp thức ăn, thiệt là đã đời, chúng tôi hành quân mà
như đi picnic. Nhưng trong tôi linh cảm điều gì đó không ổn, đơn vị
chúng tôi luôn luôn được tung vào những nơi hiểm địa, chớ đâu phải đi
chơi như thế này.
Sau
một thời gian hoạt động đơn độc, chúng tôi được tăng cường 1 Chi đoàn
thiết giáp, có khoảng 12 xe bọc sắt M113. Với sự phối hợp này vùng hoạt
động của chúng tôi rộng lớn hơn. Hằng ngày, chúng tôi ngồi trên xe thiết
giáp hành quân lục soát nơi này nơi nọ, vẫn yên bình, không hề có tiếng
súng. Rồi cái ngày giông bão đó đã đến. Hôm đó, bình thường như mọi
ngày, chúng tôi lên xe đi hành quân. Đi đến các điểm đã được chỉ định
sẵn trên bản đồ, đi đến chỗ này lục soát, không có gì lại đi đến chỗ
khác. Cuối cùng đoàn xe đến 1 điểm, bất chợt đoàn xe dàn hàng ngang
ngoài ruộng, hướng về mục tiêu là một bờ vườn rậm rạp. Lính Trinh Sát
tụi tôi được lịnh xuống xe, tiến vào bờ vườn. Trung đội tôi tiến về phía
bên trái của đội hình Đại đội. Đang đi tôi bỗng lên tiếng: ”Tất cả tản
ra mau, đi túm tụm như vầy dễ ăn đạn lắm!” Không ngờ lời nói của tôi
“linh như miễu”. Đạn phát nổ vang trời dậy đất, tôi bị trúng đạn, bật
người ngã xuống đất, máu ở đâu chảy xuống mặt tôi thành dòng, tôi ra
lịnh bắn trả xối xả, nếu không phía bên kia họ thừa thắng xông lên thì
thật là nguy khốn. Súng nổ một chập thì im lặng, lúc đó tôi mới rảnh rờ
rẩm khắp người xem mình bị thương nơi đâu. Tôi giật mình kinh ngạc và
cảm thấy hết sức lạ lùng, bởi vì tôi bị bắn trúng một lượt 2 viên đạn
súng tiểu liên AK, một viên bắn trúng vào đầu mũi súng ngắn tôi nhét
trước bụng, viên đạn bể ra văng tứ tán lên mặt lên cánh tay, nên máu
tuôn ra thành dòng là vì thế, song phần còn lại của viên đạn chui tọt
vào đùi, máu tuôn ra khá nhiều nhưng không nguy hiểm. Viên đạn thứ 2,
mới thật là ghê rợn, viên đạn bắn trúng vào cái bóp tôi để trên túi áo
trái, ở phía trước trái tim, viên đạn quậy nát cái bóp, tôi để rất nhiều
tiền vì mới lãnh lương, tiền và giấy tờ đã cuốn viên đạn lại, nằm yên
trong đó, có lẽ viên đạn được bắn ra trong khoảng cách quá gần, làm viên
đạn không đủ sức xuyên phá. Lúc đó tôi sợ lắm, bởi vì tôi nghĩ phải có
một phép lạ thiêng liêng nào đó đã che chở cho tôi, chứ trên đời này
hiếm có ai bị bắn trúng một lượt 2 viên đạn mà còn sống như tôi vậy
Cũng
ngay lúc ấy, tôi chợt nghe một tiếng rên yếu ớt của người lính đệ tử
của tôi: ”Thiếu Úy ơi! cứu em! “ Tôi nghe xong mà sợ điếng hồn, té ra
nãy giờ đệ tử của tôi bị trúng đạn mà tôi không hay biết, bởi vì cỏ cao
che khuất nên tôi không thấy anh ta nằm trước mặt, cách tôi chừng dăm ba
thước. Thông thường các Sĩ quan Trung đội Trưởng có 2 người lính đệ tử,
2 người này có nhiệm vụ lo chỗ ăn chỗ ngủ và lo mang vác đồ đạc cho ông
Thầy. Những người lính đệ tử của tôi thường đối với tôi rất chí tình,
họ sẵn sàng sống chết vì tôi mà không hề so đo tính toán. Khi tôi dẫn
Trung đội xung trận, 2 người lính này theo sát để bảo vệ cho tôi. Hôm
nay, một trong hai người đệ tử đã hứng đạn cho tôi, khi ngã xuống đã kêu
lên lời cầu cứu đến tôi. Ít lâu sau thì anh ta chết, tiếng kêu thảm sầu
của anh ta đã xoáy vào lòng tôi, và ở yên trong đó từ ngày ấy cho đến
bây giờ. Vậy mà 37 năm đã trôi qua, tôi chưa có một lần nào về đứng
trước mộ anh, để đốt một nén nhang nói lời cảm tạ. Anh ta là Hạ sĩ
Nguyễn Văn Đồng, một cái tên vừa bình thường vừa vô danh, nằm lẫn khuất
đâu đó trong một triệu người đã nằm xuống trong cuộc chiến tranh tức
tưởi này.
Sau
khi tôi bị thương, tôi giao Trung đội lại cho Trung đội phó là Chuẩn Úy
Nguyễn Thọ Tường. Tôi ra ngoài, leo lên xe Thiết giáp ngồi nghĩ và ngó
vào trận địa, tôi chợt thấy Chuẩn Úy Tường dàn đội hình hàng ngang xung
phong vô mục tiêu, tôi kêu lên thảng thốt: ”Đừng làm thế, Tường ơi! “.
Sau đó, Trung đội tôi bị bắn tan tác, Chuẩn Úy Tường bị trúng đạn chết
tại mặt trận, mắt vẫn mở thao láo, có lẽ anh ta không biết sao mình lại
chết như vầy. Trung đội tôi coi như tan hàng xóa sổ. “Tường ơi! Vĩnh
Biệt!”
Không
biết sao đại đội tôi đóng quân bên bờ Rạch Cái Cái rất lâu. Rồi tới
ngày Mùa Nước Nổi kéo về, nước chảy ào ào một chiều duy nhất, không có
cảnh nước ròng nước lớn gì nữa hết. Nước mỗi ngày dâng cao cả gang tay,
đến lúc này đây mới thấy lúa sạ là một loại lúa kỳ diệu, nước dâng tới
đâu thì lúa dâng tới đó, nước sâu 5-6 mét thì cây lúa cũng dài nhằng ra
5-6 mét, tôi chưa nơi nào cây lúa lại kỳ dị như vậy. Rồi đến lượt cá
Linh tràn về, cá nhiều đến nỗi không biết cơ man nào kể cho xiết, có khi
tôi thấy cá Linh nổi lềnh lên cả một khúc sông, và kỳ lạ một điều nữa
là người dân ở đây thà ăn mắm ăn muối chớ họ không ăn cá linh, họ nói họ
thấy cá Linh cả đời nên tự nhiên họ đâm ngán tới cổ. Ô! nước cứ dâng
lên mãi, khiến chúng tôi kiếm chổ đóng quân khá vất vả, chúng tôi rút
lên gò thì rắn với chuột cũng kéo lên gò, ban đêm chúng cứ bò xục xạo
trong mùng chúng tôi trông thật ghê khiếp. Cả đơn vị phải chẻ nhỏ ra
thành từng toán. Vào hôm đó toán của thầy trò chúng tôi đi tới một cái
gò còn khô ráo.
Đêm
đó như thường lệ tôi ngủ dưới một mái lều, tới nửa đêm tôi đang ngủ mê
mệt, thì cảm thấy có ai đang khều khều đầu mình. Ở chốn trận tiền ai ngủ
cũng phải thật nhạy thức, tôi cũng vậy, tôi tưởng lính gác báo động nên
vội ngồi dậy ngay. Tôi ngó ra ngoài lều thì thấy dưới bóng trăng sáng
vắng vặc một em bé gái khoảng 13-14 tuổi đứng nhìn tôi và mỉm cười thật
tươi tắn. Tôi trố mắt nhìn ngẩn ngơ một hồi rồi mới biết đó là hồn ma,
tôi sợ quá vội vàng nằm xuống kéo mền trùm kín đầu. Sáng hôm sau, tôi
thấy chỗ tôi ngủ nằm kề bên 1 cái bàn thờ bằng gỗ xiêu vẹo mục nát. Tôi
bèn rảo bước vào xóm để hỏi thăm về cái gò này, được người dân cho biết,
trước kia có một em bé nhà nghèo lắm, hàng ngày chèo xuồng ra đồng nhổ
bông súng, đem vô xóm bán dạo. Một hôm em cũng chèo ghe ra đồng như hàng
ngày, sau đó súng đạn nổ ran, em bị đạn lạc chết trên gò, em chết trẻ
hồn thiêng không siêu thoát, đêm đêm hiện về khóc lóc thảm thiết, dân
làng thấy vậy bèn làm cho em một cái bàn thờ gỗ để nhang khói cho em.
Câu chuyện thật tội nghiệp. Ở nơi chốn tên bay đạn lạc này,đời sống
người dân khốn khổ không sao kể xiết,nếu họ muốn đi đến một nơi chốn an
lành khác, họ cũng không biết đi đâu, mà nếu có đi cũng không biết lấy
gì mà sống.
Trong
đời lính của tôi, tôi sợ nhất là phải đi báo tin tử trận hoặc thăm
viếng những gia đình có người thân chết trận, vậy mà có một lần tôi đã
phải làm chuyện này một cách bất đắc dĩ. Chuẩn Úy Nguyễn Mạnh Hà ra
trường sau tôi khoảng một năm, lúc đó anh ta mới 19 tuổi, còn đặc sệt
nét con nít. Tôi nhớ hồi tôi mới ra trường trông đã rất chán, anh chàng
này trông còn chán hơn tôi nữa. Mặt của Hà còn đầy mụn trứng cá, suốt
ngày chỉ thích ngậm kẹo, có ai rủ nhậu, nể lắm anh ta mới uống, vừa uống
vừa chắc lưỡi hít hà như uống thuốc độc. Điều đặc biệt nhất của Hà là
anh ta rất sợ tiếng nổ, khi nghe súng nổ anh ta nhắm chặt mắt, bịt kín
lỗ tai, và mặt mày thì tái mét. Anh ta về làm Phó cho tôi, làm giọng
“chảnh”, tôi hỏi anh ta một cách xách mé: “Sao ông nhát như vậy mà xin
về Trinh Sát”. Anh ta bèn phân trần, anh ta đâu có xin xỏ gì đâu. Ban
Quân số thấy không có ai tình nguyện nên chỉ định bừa, dè đâu trúng ngay
anh ta. Khi đụng trận tôi lo cuống cuồng đủ mọi chuyện, còn phải để ý
đến anh ta nữa chứ, anh ta có biết gì đâu, thiệt khổ. Càng về sau các Sĩ
quan rơi rụng dần dần, C/U Hà cũng được đưa lên làm Trung đội trưởng.
Cái ngày định mệnh dành cho Hà là tại mặt trận Mộc Hóa. Cả đại đội được
lịnh tấn công vào mục tiêu. Trung đội của Hà và một trung đội nữa vỗ vào
mặt chính diện, trung đội tôi thọc vào bên cạnh sườn. Hà dẫn tổ đại
liên chạy đến ẩn nấp vào một gò mả bằng đá ong, ngay lúc ấy phía bên kia
phóng ra 1 trái hỏa tiển B40, trúng ngay gò mả, viên đạn nổ tạt ra
trúng ngay vào người Hà. Tội nghiệp Hà chết không toàn thây. Lúc Hà còn
sống, mỗi khi tôi về phép, Hà thường nhờ tôi ghé qua nhà Hà ở Sài gòn,
để mang dùm quà của gia đình xuống cho Hà, vì thế tôi khá thân thuộc với
gia đình của anh ta. Hà mất được chừng một tháng, thì tôi xin được cái
phép 6 ngày về thăm gia đình. Tôi bèn ghé qua nhà Hà nhằm nói lời chia
buồn với gia đính anh ta. Tôi vừa tới, Ba Má của Hà chạy ùa ra nắm lấy
tay tôi, rồi hỏi dồn dập:
– Sao cái hôm em Hà nó chết, mà cháu lại không về đưa đám tang em?.
Tôi lúng túng trả lời:
– Thưa, lúc đó chúng cháu đánh nhau tưng bừng, làm sao cháu bỏ đơn vị mà về cho được.
Thế
là vừa ngồi xuống ghế, hai ông bà khóc ngất ngất, lúc đầu ông bà còn
lấy tay lau nước mắt, lúc sau thì để mặc, nước mắt tuôn ra xối xả làm
ướt đầm cả ngực áo. Tôi kinh hoàng ngồi chết điếng, tôi chưa bao giờ gặp
phải một trường hợp bi thương tột độ đến như vậy. Ông bà vừa khóc vừa
kể lể tiếc thương cho đứa con không sao kể xiết. Cha mẹ nào có con ra
mặt trận, coi như đã chết nửa linh hồn, đêm ngày sống trong hốt hoảng lo
âu, mong ngóng con mình, mãi về sau tôi mới nghiệm ra được điều này.
Nghe ông bà than khóc một hồi, tôi không chịu đựng nổi nữa và tôi cũng
không nói một lời phân ưu gì nữa hết, bởi vì lời nói nào cho đủ trước
một mất mát quá lớn lao này. Rồi tôi nghĩ đến tôi, đến Ba Mẹ tôi, trong
lòng tôi bỗng xộc lên một nỗi buồn khủng khiếp. Tôi lảo đảo đứng dậy từ
giã hai ông bà để ra về. Trên đường về tôi ghé vào một quán cóc, ngồi
uống rượu một mình, tôi buồn lắm. Tối hôm đó tôi về đến nhà khá muộn, cả
nhà chờ cơm tôi quá lâu nên đã dùng trước. Tôi ngồi vào bàn, Mẹ tôi bày
thức ăn la liệt trên bàn cho tôi ăn. Vừa ăn tôi vừa nghĩ, mai kia nếu
mình có chết, Mẹ cũng bày đồ cúng cho mình như thế này đây. Tôi chợt nhớ
đến khuôn mặt đầm đìa nước mắt của cha mẹ Hà, lúc đó bỗng nhiên tôi
thương Ba Mẹ tôi vô cùng. Tôi vừa ăn vừa lặng lẽ chảy nước mắt.
Cuối
cùng vào tháng 2 năm 75, tôi bị thương một lần nữa tại mặt trận Mộc
Hóa. Tôi được đưa về điều trị tại Bịnh xá Tiểu đoàn 9 Quân Y tại Vĩnh
Long. Tại Bịnh xá, tôi theo dõi tình hình chiến sự trên cả nước, khi mất
Ban Mê Thuột, tôi linh cảm có điều gì đó không lành. Đến ngày 30-4-75,
khi nghe lịnh buông súng đầu hàng, trong lòng tôi nát bấy. Sáng ngày
1-5, tôi bước ra khỏi Bịnh xá, đứng trên Quốc lộ 4, tôi nhìn về hướng
Cần Thơ, thấy mặt trời lên đỏ rực, báo hiệu một ngày mới. Lúc đó tôi
không hề biết rằng, đó là cái ngày đầu tiên của một hành trình bi thảm
khác, có tên gọi là “Mạt Lộ”.
Bài
viết này của tôi sao buồn quá, nhưng biết làm sao được, bởi vì đó là sự
thật, cho tôi viết một lần này thôi, như nhớ về một kỷ niệm, một kỷ
niệm rưng rưng.